Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

Qua một khúc sông

Linh kéo rèm cửa sổ, vẻ mặt hứng khởi khi vừa cắm xong một bình hoa violet thật đẹp. “Hạnh ơi, nhìn này…”. Bao giờ những đoá violet đối với nó cũng như đong đầy hạnh phúc. Tôi nhìn thờ ơ, bất ngờ cáu kỉnh: “Kéo rèm lại cho tao còn ngủ”. Linh mim mím môi như vừa lỡ lời, như thể nó vừa mới thốt ra câu nói bất lịch sự kia chứ không phải tôi. Cái vẻ ấy càng khiến tôi khó chịu.


Nó là con gái cô Thư, bạn thân của mẹ ở tuốt Tây Nguyên. Học xong đại học, nhà nghèo khó lại không xin việc được, mẹ nó gửi xuống thành phố, nhờ nhà tôi xin giúp. Nó hơn tôi vài tuổi nhưng tôi vẫn quyết gọi là “con bé”, dù mẹ có ép uổng mắng mỏ không ít lần. Nó nhỏ con, đen nhẻm, quê mùa, luôn tỏ ra lép vế khi trò chuyện. Điều ấy khiến tôi thấy mình lớn hơn nó. Sở dĩ tôi khó chịu với nó đến vậy cũng vì sự xuất hiện quá đường đột của nó chen vào cuộc sống của mình. Ngay ngày đầu mới đến nhà, nó được mẹ nghiễm nhiên sắp xếp tư trang vào phòng tôi. Bắt gặp sự không đồng tình của tôi, mẹ cười trừ: “Nhà mình thiếu phòng mà đằng nào cuối năm nay cái Hạnh cũng đi lấy chồng, có gì phải ầm ĩ lên?”. Đã vậy, mẹ còn quý nó ra mặt. Thi thoảng tôi gào lên so bì: “Mẹ ơi, con mới là con gái mẹ đấy nhé” khi mẹ vì bênh nó mà không đếm xỉa tới quyền lợi và ý kiến của tôi. Bố là người luôn cưng chiều tôi vô điều kiện, cuối cùng lại giữ thái độ im lặng. Như vậy, không chỉ riêng tôi, ai chả muốn nổi cáu.
Có lẽ vì không ưa nó nên tôi săm soi nó khá kĩ. Không khó để nhận ra nó luôn giành cho anh ánh mắt trìu mến, long lanh. Ánh nhìn ấy khiến tôi nóng ran người. Ngay lập tức, tôi nói mẹ: “Mẹ làm sao thì làm, đây là chuyện tế nhị, đừng để con phải ra mặt cấm nó nhìn anh Hoàng bằng ánh mắt ấy”. Mẹ gạt đi: “Vớ vẩn, mắt con bé đẹp, hiền nên nhìn ai chẳng trìu mến vậy. Chỉ có con là nhìn người khác bằng con mắt khắt khe. Nếu cứ giữ cách nhìn ấy, con chẳng bao giờ biết yêu thương”. Cách nói của mẹ bằng đổ thêm dầu vào lửa. Tôi đóng sầm cửa bỏ đi tận khuya mới về. Lúc dắt xe ra cửa, tôi có ngoảnh lại nhìn qua cửa sổ, thấy mẹ buồn buồn.
Hoàng cười khì khi nghe tôi kể lại “trận chiến” vừa xảy ra với mẹ. Anh hỏi trớt quớt: “Em ghen hả?”. Câu hỏi chẳng liên quan mấy với câu chuyện dù có lẽ trúng tim đen tôi. Hoàng vuốt ve: “Thực tình, anh chẳng nhận ra, chẳng quan tâm cô ấy hay bất cứ cô gái nào khác nhìn anh kiểu gì. Chúng mình sắp cưới nhau rồi còn gì, em. Thôi đừng giận, mất vui”. Câu nói của Hoàng khiến tôi ấm lòng hẳn.  
* * * *
Tôi vừa đẩy xe vào nhà bỗng hốt hoảng nhận ra mẹ đang khóc bên bếp. Hình như đó là lần đầu tiên tôi thấy mẹ khóc. Mẹ giấu ánh mắt đỏ quạch, suýt xoa: “Lúc nãy bằm ớt cay quá nên nước mắt rớt tùm lum”. Tôi ôm vai mẹ: “Mẹ làm sao thế, nhà mình có ăn ớt nhiều bao giờ đâu mà mẹ nói vậy?”. Mẹ lảng qua một câu chuyện không đầu không cuối khác. Mấy hôm sau, lúc chỉ hai mẹ con ở nhà, bà nói: “Đám cưới Hạnh chắc chuyển qua đặt ở nhà hàng nhé. Nhà mình cần một khoản tiền khá lớn để chữa trị bệnh cho chị Linh”. “Linh làm sao, mẹ?”. Mẹ lặng đi vài giây, môi run run: “Ung thư xương”. Tôi chợt thấy nhói lên trong mình một cảm giác khó hiểu. “Hôm nọ nó đi làm về bị té xe, uống thuốc, chữa trị hoài không khỏi, cứ than đau nhức, đi xét nghiệm thì ra vậy” – giọng mẹ nghèn nghẹn. Dĩ nhiên tôi chẳng ác độc đến mức từ chối đề nghị của mẹ. Đêm đó, lần đầu tôi quàng tay qua ôm Linh trước khi đi ngủ, hỏi Linh hôm trước té xe còn đau không. “Vẫn còn” - Linh nhìn, không giấu được sự ngạc nhiên trước vẻ thân thiện ấy.
Điều bất ngờ lớn nhất với tôi là dù đau bệnh nhưng Linh thể hiện tình cảm của mình ngày càng rõ đối với Hoàng. Không chỉ là ánh mắt trìu mến, Linh thường nấu những cốc chè đậu ngọt mát mời anh, tranh thủ trò chuyện mỗi khi Hoàng ngồi đợi tôi tắm táp hay đang làm gì đó. Khi tôi đi xuống, những câu chuyện vui vẻ chấm dứt, Linh lúng túng quay đi, giấu ánh mắt đang lúng liếng thương yêu, Hoàng thản nhiên như không. Linh không giải thích, không chia sẻ và tránh mặt tôi đến mức tối đa dù ở chung một phòng, một nhà. Điều ấy khiến tôi càng cảm nhận một vẻ trơ lì, nguy hiểm, ẩn sau gương mặt dịu dàng có phần chân quê. Điều bất ngờ còn hơn cả bất ngờ lớn ấy, tôi nhận ra Hoàng đáp lại sự quan tâm. Hôm qua Linh vừa than sắp hết mùa hoa violet rồi, đi chợ chẳng thấy bán thì sáng nay hoàng đã đến với bó violet tím biếc trên tay mặc tôi nói rằng tôi ghét violet. Khỏi phải nói tôi cũng biết chắc rằng Hoàng phải dậy từ lúc trời chưa sáng rõ để chạy xe ra tận chợ hoa đầu mối mới mua được bó hoa ấy. Khi tôi bóng gió hờn ghen, Hoàng trấn an: “Em nhạy cảm thái quá đấy, sao lại ghen tuông với cả chị em trong nhà? Anh coi Linh như người nhà, tình cảm trong sáng thôi, đâu có gì mà em phải buồn?”. Tôi ừ hử, đúng là chưa có điều gì có thể coi là không trong sáng hay có vấn đề để tôi phải buồn.
* * * * *
Cơ quan tổ chức đi du lịch hè Campuchia. Chẳng hiểu lãng đãng thế nào, tôi bỏ quên hộ chiếu. Vội chạy về nhà lấy, tôi thấy xe Hoàng dựng trong sân. Nhẹ nhàng mở cửa, nhẹ nhàng đi vào với một linh cảm không hay, tim tôi như bị ai bóp nghẹt khi thấy anh đang ôm gọn Linh trong lòng. Hoàng có nói gì đó mà tôi nghe không rõ nhưng vẫn kịp gằn từng tiếng: “Anh tồi lắm”. Tưởng như gương mặt tôi hoá đá, lạnh run rẩy, tôi đi thẳng vào phòng lấy cuốn hộ chiếu trên bàn và chạy lao ra khỏi cửa. Còn nghe giọng Hoàng gọi với theo đầy bất lực.
Sau chuyến đi du lịch đầy tẻ nhạt hay nói đúng hơn là một cuộc chạy trốn, tôi quyết định huỷ đám cưới cuối năm, dọn ra ở riêng với lí do nhà quá ngột ngạt, chật chội. Hoàng tìm gặp nhưng tôi luôn tránh mặt. Mẹ không giữ lại, chỉ nói: “Tha thứ cho mẹ”. Khi quay đi, tôi cảm nhận rõ sự đổ vỡ ngổn ngang trong lòng, tựa như những thành quách rêu phong đổ nát, cũ kĩ vừa gặp trong chuyến đi vừa qua. Chỉ mỗi bố tiễn tôi sang nơi ở mới. Dọn dẹp đồ đoàn xong tôi gục đầu vào vai bố nức nở như hồi còn bé. Bố ôm tôi thật chặt, ấm: “Nín đi con gái, khi một điều gì khiến con đau khổ xảy ra con hãy cứ tin, biết chờ đợi là sẽ vượt qua. Rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi mà”.
Mẹ ít liên lạc với tôi. Có khi như vậy càng hay vì sẽ không ai chạm tới nỗi buồn của tôi. Sau những cố gắng liên lạc không được, Hoàng dường như biến khỏi cuộc đời tôi. Có khi buồn quá, tôi ác độc nghĩ cầu cho kẻ phản bội ấy và Linh đừng bao giờ xuất hiện trước mắt mình. Cho tới mãi sau này tôi vẫn không nguôi trách mình đã có những giây phút nguyện cầu ác độc ấy. Chỉ sau 5 tháng tôi đi, bố điện thoại báo tin Linh không thể vượt qua đợt hoá trị, bệnh viện đã trả về. Thời gian sống đếm từng phút, từng giờ. Tôi trở về nhà. Mẹ tôi hoàn toàn ngã gục như khúc gỗ mục túc trực bên giường Linh. Bà không nói nổi một lời khi tôi đứng trước mặt.
* * * * *
Mẹ đưa tôi cuốn nhật kí của Linh. Tôi thắt lòng đọc những dòng chữ run rẩy: “Mình yêu anh ấy, mình biết điều ấy sẽ khiến Hạnh đau lòng lắm. Mình biết mình không được phép vậy. mình đã cố gắng chôn giấu mà không được. Làm sao điều khiển được trái tim mình khi toàn thân mình luôn rã rời, đau nhức, chỉ trái tim là không thôi nhảy múa khi thấy anh. Có khi nhờ có trái tim biết yêu mà giờ này mình còn sống và mình phải sống. Mình thương Hạnh đắng đót khi nhìn Hạnh ra đi, cũng thương anh hơn, vì đến với mình mà anh mang tiếng là người đàn ông tồi, là kẻ phản bội…”. Khi tôi hiểu Linh hơn thì chẳng có cơ hội để nói với chị rằng, cả Linh và tôi đều đáng thương khi yêu.
Sau 49 ngày Linh mất, Hoàng vẫn qua thắp hương hàng ngày, đứng lặng trước di ảnh Linh khá lâu rồi lặng lẽ ra về. Anh chủ động tránh mặt tôi. Tôi nhận thấy vẻ đau đớn trên mặt anh. Điều ấy khiến tôi càng thêm xót. Hôm nay, Hoàng chào mẹ và tôi, anh báo tuần sau ra miền Bắc nhận công tác. Nếu phù hợp sẽ xin nhận công tác ở hẳn ngoài đó. Khác với thái độ khi tôi bỏ nhà ra đi, mẹ tôi đứng dậy, nắm chặt tay Hoàng tha thiết: “Con đi công tác rồi về lại, đừng đi luôn nha con”.
Chỉ còn hai mẹ con trong gian phòng của riêng tôi. Căn phòng nhỏ tôi đã từng mong Linh không dọn vào cùng ở giờ sao quá vắng, quá trống khi thiếu chị. Mẹ chùng giọng: “Tất cả là tại mẹ. Chính mẹ đã xin Hoàng đóng vai là người yêu của Linh. Bác sĩ nói Linh khó qua nổi năm nay. Nhưng mẹ giấu mọi người, giấu Linh. Mẹ nhìn ánh mắt đầy khát khao yêu thương của Linh mà hy vọng nhờ lạc quan, nhờ tình yêu nó sẽ khoẻ lại. Vậy mà tình yêu cũng không cứu nổi nó”.
 - Tội nghiệp con Linh, hai mươi lăm tuổi, nó khát sống, khát yêu thì không được. Vậy mà khi bằng tuổi nó, vừa mới sinh nó, mẹ đã ôm nó ra sông nghĩ đến cái chết. Cũng may cô Thư phát hiện… Suốt đời này mẹ mang ơn bố con, mang ơn cô Thư và mắc nợ chị con - Câu nói của mẹ khiến tôi chết sững. Đến giờ tôi mới biết, mới hiểu vì sao mẹ thương Linh đến đứt ruột, bố lại luôn giữ thái độ im lặng sẻ chia với mẹ. Linh là kết quả của mối tình bị phụ bạc của mẹ trước khi mẹ gặp bố. Cô bạn thân lỡ thì của mẹ đã giang tay giúp đỡ nhận Linh làm con để mẹ có thể vượt qua cơn tuyệt vọng, gượng dậy làm lại cuộc đời.
Trước khi lên máy bay, Hoàng nói: “Em không cần phải xin lỗi anh. Anh vẫn là người có lỗi. Khi anh nói với em rằng tình cảm anh và Linh hoàn toàn trong sáng, anh không yêu cô ấy thì đó là sự thực. Anh nghe mẹ chỉ vì thương mẹ, thương Linh. Nhưng đến bây giờ… anh nhận ra điều ấy không đúng nữa. Anh yêu Linh”.
* * * * *
3 năm sau đó, đám cưới của tôi và Hoàng cuối cùng vẫn diễn ra sau nhiều khúc sông. Anh quay lại, tình yêu của chúng tôi ấm nồng lại. Ngày cưới, khi trời chưa kịp sáng, tôi cùng Hoàng chạy xe lên tận chợ đầu mối, mua hàng chục bó hoa violet để trang trí bữa tiệc và phòng tân hôn. Tôi muốn vẫn thấy chị Linh ở quanh đây. 







Nói với con trai - con gái


Những điều hay ho này, cất dành để dạy vợ/ chồng mình, sau này là dạy con trai, con gái mình....
Thanks for internet

* Bố dạy con trước khi lấy vợ

Bố bảo nhìn vào chiếc giường là biết cuộc sống vợ chồng có hạnh phúc hay không. Dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, đừng mang chăn gối ra sofa ngủ, cũng đừng quay lưng vào người vợ của con, hãy ôm cô ấy vào bờ vai và khuôn ngực nóng hổi của con. Tất cả sẽ qua đi, chỉ tình yêu còn lại.



Bố bảo dù ở ngoài xã hội, con có là xe ôm, hay ông lớn, ông bé, thì về nhà con vẫn là trụ cột của gia đình. Vợ con có thể là người phụ nữ rất đảm đang, cô ấy có thể đóng đinh, sửa ống nước hay tháo quạt trần, nhưng hãy làm việc đó - trừ khi con quá bận. Nó vừa thể hiện sự công bằng, vừa thể hiện sự chia sẻ vợ chồng.

Bố bảo sau khi kết hôn sẽ hơn một lần con cảm thấy hối hận, thậm chí có mối quan hệ ngoài chồng ngoài vợ. Mỗi lần như vậy con hãy nhớ rằng: Người bồ hiện tại yêu con mười phần, người vợ hiện tại cũng đã từng yêu con mười phần, nhưng (như một số blog radio đã nói) khi bước vào hôn nhân, vai trò của phụ nữ càng trở nên phức tạp hơn, ngoài tình yêu họ còn có cả trách nhiệm. Vì vậy khi đã kết hôn, người ta sẽ không thể yêu con mười phần được nữa. Họ phải dành một phần trong số đó để yêu bố mẹ chồng, rồi lại một phần để yêu bố mẹ họ, còn thêm một phần nữa cho con cái. Và như thế, mười phần tình yêu khi bước qua hôn nhân chỉ còn lại bảy phần. Bằng cách này hay cách khác, 3 phần con mất đi từ người vợ sẽ được nhận lại gấp đôi từ gia đình và con cái của con. Và một lý do nữa, người bồ sẽ chỉ đem lại cho con hạnh phúc nhất thời, còn người vợ sẽ đem lại cho con hạnh phúc bền vững. Thật tuyệt vời phải không?

Bố bảo thời kì mang thai là thời kì khó khăn nhất đối với người phụ nữ. Là bởi vì muốn có được thiên thần thì phải qua thời gian khổ cực. Chính vợ con là người đã gánh vác sự khổ cực đó để đem lại niềm vui cho cả nhà. Thế nên đừng thở dài khi thấy vợ con chẳng còn được vẻ đẹp thời thiếu nữ, hay cũng đừng tức giận khi con nằm cạnh vợ mà chẳng thể làm gì. Hãy cùng cô ấy cảm nhận niềm vui của những ông bố bà mẹ, chắc sẽ thú vị lắm.

Bố bảo chuyện mẹ chồng nàng dâu là chuyện muôn thuở, giống như bệnh tiền mãn kinh vậy. Thế nên con hãy là sợi dây kêt nối họ - hai người phụ nữ yêu con nhất trên đời. Đừng để mẹ cảm thấy bà đã mất con trai, và vợ con cảm thấy chồng mình là người nhu nhược. Như thế mới là đàn ông chân chính.
Bố bảo rằng đừng tưởng người mẹ mới dạy dỗ được con. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, trong thời gian người mẹ mang thai thì người cha mới là người ảnh hưởng lớn nhất đến tình cảm và sự phát triển của trẻ. Con có thể không là người bố tuyệt vời nhất thế giới, nhưng hãy là người bố tuyệt vời nhất trong lòng những đứa con.

Bố bảo “Phụ nữ là để yêu, không phải để hiểu". Nhưng nếu không hiểu, thì con chẳng thế yêu. Hãy hiểu họ bằng chính trái tim mộc mạc của con.

Bố bảo “quá khứ là thứ đã qua, hiện tại mới là cuộc sống". Nếu quá khứ của vợ con có lỗi lầm, đừng chấp nhặt, cũng đừng đay nghiến, vì đồng ý lấy vợ, là con đã chấp nhận tất cả những gì thuộc về cô ấy. Hãy khoan dung và độ lượng. Dù không nói ra nhưng chắc chắn, cô ấy sẽ yêu con đến suốt cuộc đời - một tình yêu bao gồm cả sự biết ơn và tôn trọngVà cuối cùng bố bảo, cuộc sống luôn thay đổi, hãy biết trân trọng từng ngày.

* Mẹ dạy con trước khi lấy chồng:

Mẹ bảo, cãi nhau với đàn ông thì đừng có chạy ra ngoài mà oang oang khắp nơi. Anh ta tiến về phía con một bước thì con hãy bước về phía anh ta hai bước.
Mẹ bảo, lúc giận đừng có cãi nhau, có thể không nói gì, không giặt quần áo của chồng, nhưng không được cãi nhau với chồng.

Mẹ bảo, ngôi nhà chính là chỗ đóng quân của người phụ nữ, cho dù có xảy ra chuyện gì thì cũng đừng có bỏ đi. Bởi vì, đường trở về rất khó khăn.

Mẹ bảo, hai người trong nhà đừng có lúc nào cũng chỉ nghĩ đến sĩ diện, hai người sống với nhau, sĩ diện quan trọng lắm sao? Nếu thế thì ra ngoài sống thế nào được?

Mẹ bảo, bất kể một người đàn ông giàu có, nhiều tiền như thế nào thì anh ta vẫn hy vọng có thể nhìn thấy con sạch sẽ thơm tho ở trong một ngôi nhà sạch sẽ tươm tất và đợi anh ta.

Mẹ bảo, đàn ông tốt rất nhiều, anh ta sẽ không bao giờ đi ôm người phụ nữ khác. Nhưng trong cái xã hội như thế này, có rất nhiều phụ nữ xấu sẽ dang tay ra ôm lấy người đàn ông của con.

Mẹ bảo, phụ nữ nhất định phải ra ngoài làm việc, cho dù là kiếm được nhiều hay ít, làm việc chính là sự thể hiện giá trị cuộc sống của bản thân. Nếu con cứ ở nhà mãi, anh ta sẽ có cơ hội nói trước mặt con rằng: “Tôi đang nuôi cô đấy.”

Mẹ bảo, con đi làm bên ngoài, dù có bận lắm là bận thì vẫn phải làm việc nhà, nếu không thì dùng tiền của mình mà tìm một người giúp việc theo giờ. Việc trong nhà nhất định phải lo liệu tốt, con cái cũng phải nuôi dạy cho tốt.

Mẹ bảo, anh ta vì con mà làm những việc con không bao giờ ngờ tới, con có thể cảm động, có thể khen ngợi, nhưng nhất quyết không được châm chọc kiểu “hôm nay mặt trời mọc đằng tây rồi hay sao”. Vì nếu như vậy, sau này anh ta sẽ không bao giờ làm bất cứ việc gì vì con nữa.

Mẹ bảo, chẳng có ai là một nửa của ai cả, ý nghĩ của con mà không nói ra thì ai mà biết được. Cần cảm nhận cái gì, ghét việc gì, con phải nói ra thì người ta mới hiểu được.

Mẹ bảo, bố mẹ anh ta cũng là bố mẹ con, cho dù bố mẹ anh ta đối xử với con không được tốt cho lắm, thì con cũng phải đối tốt với họ. Bởi họ là bố mẹ của anh ta.

Mẹ bảo, một khi đã quyết định sống cùng người đó rồi, thì đừng có oán thán cuộc sống khó khổ, nếu như con đã chọn anh ta, thì đừng có oán trách anh ta.

Mẹ bảo, nhiều tiền như thế thì có tác dụng gì, anh ta đâu? Anh ta đang ở đâu?

Mẹ bảo, cả đời này chúng ta có thể tiêu hết bao nhiêu tiền? Đừng mua những đồ xa xỉ mà làm gì, sống hạnh phúc là tốt rồi.

Mẹ bảo, đừng có dọa con cái là “mẹ không cần con”. Lúc cáu giận đừng có đuổi con cái ra khỏi nhà, chẳng may không thấy nó thật, con sẽ rất đau khổ.

Mẹ bảo, đừng đánh con cái, lại càng không nên lôi ra ngoài mà đánh.

Mẹ bảo, tình yêu mà cứ đánh đấm, đâm giết nhau đúng là mãnh liệt thật, cũng rất lãng mạn, nhưng không thực tế. Cứ bình thường thôi là được.

Mẹ bảo, cái gì thì cũng đều là duyên phận cả. Mẹ bảo, cuộc sống luôn thay đổi, phải biết trân trọng từng ngày.
Nguồn: Internet

Thứ Năm, 8 tháng 8, 2013

Có đoá trà chết đêm qua




1. Chị hàng xóm mới dọn nhà đến khiến Liên nhớ ngay tới nhân vật nữ trong cuốn tiểu thuyết trà hoa nữ cô yêu thích. Chị tên Trà My, tên một loại hoa đẹp, buồn, thơm se sắt lòng. Chị làm ở quán bar Viễn Dương nổi tiếng bên sông Sài Gòn. Cả ngày ở nhà ngủ nướng, ưỡn ẹo đi shopping hoặc đánh tennis. Chị có hai đứa con gái, mỗi đứa có hẳn một ông bố khác nhau nhưng chị chẳng có nổi tấm chồng. Giờ làm việc của chị bắt đầu từ chập choạng tối, lúc ấy chị trang điểm lộng lẫy, bất ngờ như tia nắng xế chạy xe ra khỏi con hẻm đầy những cánh dơi đen sì bay lên. Lúc chị về là 2, 3 giờ đêm. Không ai soi mói giờ giấc của người đàn bà ấy nhưng lũ chó vô duyên lại sủa nhặng xị khiến mọi người cùng tỉnh giấc.
Xuất xứ ấy khiến chị dường như không được lòng cả con hẻm vốn bình lặng toàn nhà giáo ưu tú, bộ đội cụ Hồ từ trước tới nay. Chỉ có Liên, làm thợ may trong hẻm, vốn quen thói đon đả chào mời khách nên với chị, Liên cũng luôn tươi cười. Bất đắc dĩ, chị hay qua lại niềm nở với Liên, lúc cho cô hộp son, khi hộp phấn. Phần nhiều Liên phải từ chối vì màu sắc rực rỡ không phù hợp tính giản dị của cô. Có lần, nể quá Liên đành nhận thỏi son màu hoa đào. Khi chị về, Liên xem kĩ thì phát hiện thỏi son ấy đã hết hạn sử dụng cách đây 2 năm!
Mẹ chồng nhắc khéo Liên không nên dính vào loại đàn bà ấy làm gì, kẻo mang vạ vào thân. Mẹ nhắc Liên cũng có lí do. Hàng xóm trong con hẻm, chưa ai không gặp chuyện phiền hà với chị Trà. Mới sáng nay, một bà giáo già nhắc chị buổi tối về chịu khó dắt xe vào hẻm hoặc hạ ga nhỏ thôi. Hẻm nhỏ, tiếng xe to bà không ngủ được. Chị không trả lời mà lườm nguýt rõ dài. Khi bà giáo hưu trí đã quay đi, Liên nghe chị nói với hai đứa con gái: “Con già ấy, bây giờ đòi ngủ, hai ba năm nữa ngủ luôn mới thấy tiếc sao hồi thức được lại không chịu thức”. Mẹ chồng Lliên lầm rầm chửi vừa đủ nghe: “Cái con mất dạy”. Liên cố vớt vát: “Có khi chị ấy chỉ ác miệng chứ không ác tâm”. Nói gì thì nói, từ khi có chị con hẻm đã ồn ào hơn. Đàn ông trong hẻm biết liếc dọc liếc ngang mắt đưa tình hơn còn đàn bà biết ngấm nguýt, hờn ghen nhiều hơn. Liên thấy nhà mình vẫn bình thường khi mình không có tính hờn ghen mà chồng thì mặc kệ không quan tâm chuyện nhà khác. Có khi hỏi hàng xóm tên gì có khi chồng cũng chỉ nhớ ấm ớ.
Chị đẹp. Vẻ đẹp mặn mà và tràn đầy khiêu khích. Nhìn chị đi với hai đứa con tuổi mười bốn, mười lăm, người ta dễ hình dung ra nhà có ba chị em hơn là ba mẹ con. Cổ áo chị luôn rộng gấp 3, gấp 4 lần những người phụ nữ khác trong xóm, để lộ gần nửa khuôn ngực vun đầy, trắng lốp. Mỗi sáng, thấy chị vươn vai tập thể dục trước nhà lúc… 9 giờ. Ánh nắng đã lên cao chiếu thẳng vào gương mặt sắc nét của chị khiến Liên chột dạ nghĩ, mình còn nhìn chị mê mệt thế kia nữa là cánh đàn ông. Có lúc, nghĩ chị phí hoài nhan sắc khi ngày qua ngày chỉ những buổi tối sực nức phấn son, buổi ngày ngủ dậy muộn và vào ra uể oải, Liên hỏi chị, sao không kiếm một chỗ dựa. Chị thủng thẳng nói: “Sướng nhất là dựa chính mình, có ngã cũng do chính mình, không ai lại tự làm đau mình cả”. Liên cười cười: “Chị nói như nhà văn”. “Ô hay, trước đây tao từng là học sinh giỏi văn mà lại. Nhưng giá tao không biết mình đẹp, giá tao không đẹp có khi tao thành nhà văn chứ không thành con điếm ở quán bar”. Chị cười lớn, những vị chua chát chạy quanh ánh mắt.    

2. Dạo này chị có chồng. Một anh tây mắt xanh, mũi lõ, đẹp như tài tử xi – nê. Anh chàng là thủy thủ, những ngày biển lặng xuôi ngược các hải trình từ đất nước này qua nước nọ. Những ngày biển động neo lại Việt Nam. Anh chàng yêu Sài Gòn chẳng hiểu vì lí do gì, cho đến khi gặp chị thì chị và anh đều hiểu, vì Sài gòn có chị - chị tự tin kể. ‘”Dân Ý- ta- li- a đấy. Dân đấy là đẹp trai nổi tiếng thế giới”, giọng chị không giấu niềm kiêu hãnh. Xong, ngại ngùng như một cô gái mới lớn, chị bảo giờ chị sẽ tránh xa cái bar ồn ào, phức tạp kia, chị chuyên tâm mở shop quần áo hoặc kiếm việc làm thêm cho vui. Vì anh muốn thế. Anh nói chị khỏi đi làm, lương thuỷ thủ của anh dư sức nuôi vài ba gia đình mẹ con như chị.
Liên đoán anh chàng chắc ngoài ba mươi. Đi với ba mẹ con chị lại giống nhà có bốn chị em. Thua tuổi chị nhưng anh chàng chiều người tình hết ý. Chị trở nên bé nhỏ, hiền lành và nũng nịu bên anh chàng cao lớn. Trong khi các bà hàng xóm vất vả đi làm về phải lau nhà, quét dọn, cơm nước giặt giũ hầu chồng thì chị ngồi sơn móng tay, chải tóc, anh cung cúc làm tất cả mọi việc. Thi thoảng, chị duỗi chân tay như một cô mèo lười, nhõng nhẽo gọi: “Honey à, lấy dùm em li nước”. Anh chàng “Ok, ok cưng!”, rồi ngưng lau nhà bê nước tới tận miệng cho vợ. Không quên để lại nụ hôn tình tứ trên mái tóc màu hạt dẻ của chị. Mấy bà hàng xóm lại lắm phen ngứa mắt, phán: “Bọn nó trông phát gớm”. Chị mặc kệ, gặp ai cũng tươi cười hỏi han như chưa hề có sỉ vả, nhiếc móc nhau khiến ai gặp cũng phải khựng lại mấy giây nghĩ không biết chị có làm sao không. Liên tự nhủ, không biết thấy gớm thật hay các bà đang ghen với những cảnh đấy như thiên đường nơi xa lắm. Những người phụ nữ như Liên chẳng bao giờ thấy được chồng hôn lên tóc, dù chỉ trong mơ. 
Anh Tây về hôm trước thì ba hôm sau chị đã đưa về nhà ngập tràn hoa lá. Mỗi sáng, anh dậy từ 6 giờ, tưới tắm hết lũ cây khi chị còn ngủ vùi. Trên bậu cửa sổ nhà chị, những đoá trà mi trắng có, hồng có, chúm chím ngậm sương. Trước hiên nhà hoa thuỷ tiên tím biếc, hoa hồng đỏ tươi tắn, lại thêm bụi lài trắng toả hương thơm ngan ngát. Dãy nhà không ngăn cổng cách rào nên mổi sáng mai Liên vẫn đứng ngắm những đoá hoa tinh khôi trong nắng sớm. Chỉ hoa trà và hoa lài thường nở về đêm, lúc Liên bận bịu hàng trăm thứ việc hàng ngày, chỉ nghe thoang thoảng hương thơm khao khát lạc vào nhà chứ không thể nào nhìn ngắm.
Liên thích nhất những đoá hoa trà bên bậu cửa sổ nhà chị. Có lần đang đứng ngắm hoa, anh Tây tình cờ đi ra tưới cây nhìn thấy, bắt chuyện làm quen bằng giọng tiếng việt lơ lớ: “Hoa này tên Trà My. Cùng tên…”, anh đưa ngón cái trỏ vào phía trong nhà, chỉ chị đang ngồi ăn sáng. Anh cười toét miệng: “Vì thế tôi thích nhất trong vườn này”. Khoảnh vườn chỉ rộng chừng 4 mét vuông loi nhoi ra trước con hẻm và trên những bậu cửa, nhưng nhìn anh Tây, Liên có cảm giác đó là cả một thế giới sắc màu thân thương.  Điều cô chưa bao giờ nhận thấy ở những người đàn ông trong xóm này, ngay cả với Phi.  
-                      Em giống Tony quá, gã ấy cũng mê hoa như điếu đổ.
-                      Vâng, hoa đẹp, ai không mê
Chị khẽ nhếch môi. Hình như có phần phản đối câu nhận xét chung chung của Liên.
-                      Thế mà từ trước tới giờ chị không thấy em trồng hoa. Toàn trồng rau mồng tơi, rau muống làm gì không biết.
-                      Cho cả nhà ăn chị ạ. Bớt mua rau chợ chừng nào, hay chừng nấy. Ăn rau chợ em sợ trúng thuốc.
-                      Gớm, khéo lo. Sống chết có số cả rồi. Có khi ra đường mấy thằng chạy công ten nơ mất dạy lao sầm sập vô mình thì kiểu gì cũng không tránh khỏi cái chết…
Chị im lặng khi biết lỡ lời. Liên mỉm cười chữa ngượng, kiểu như muốn nói: ‘không sao, không sao”. Bà mẹ chồng réo gọi cô vào nhà. Giọng bà hậm hực; “nói chuyện với cái con đĩ vô duyên ấy mà làm gì”. Liên lặng lẽ thở dài. Cô không có thói quen cãi mẹ chồng hay bất cứ người nào lớn tuổi hơn mình. Dù trong thâm tâm, cô thấy mẹ thật vô lí. Chị Trà đã thôi làm vợ chung chồng chạ từ khi có tình yêu mới. Chị cũng khát khao một mái ấm, một hạnh phúc bên chồng con như bao phụ nữ, cũng biết mua những giỏ hoa về trồng vì chồng thích thế… Đâu phải vô duyên vô ý tứ như mẹ luôn mặc định nghĩ.  
Tháng ba, biển lặng. Anh Tây trở lại với những chuyến tàu lênh đênh sóng nước. Buổi sáng không ai ra tưới hoa. Liên tưới rau nhà mình xong thì tranh thủ tưới qua hoa nhà hàng xóm. Mẹ chồng phản đối: “Rỗi hơi lo việc nhà người, xóm làng người ta cười cho”. Cô chán nản buông luôn, lòng thỉnh thoảng nhoi nhót buồn khi một vài bình hoa bắt đầu rũ lá. Chỉ ba ngày sau, tất cả các bình hoa đều rũ héo. Chị ra nhìn đám hoa lả tả rơi, lá rụng đầy quanh sân cũng không buồn lấy nước cứu chúng. Chỉ mấy bình hoa trà bên cửa sổ có tươi tắn hơn vì bàn uống nước ngay cạnh đó, chị tiện tay hắt ra. Khi thấy Liên tỏ vẻ tiếc nuối đám hoa tàn úa dần, chị bảo: “Hơi sức đâu mà chăm, mai mốt ảnh về, mua lại lứa mới đẹp hơn”. Giọng kẻ cả của những người lắm tiền.
3. Chị quay lại cuộc sống lấy đêm làm ngày những ngày anh đi biển. Lại phấn son sực nức, áo hở, quần mỏng khoe ngực tròn, đùi thon. Lại hay căng cứng mặt mày và không tiếc lời sỉ vả khi lỡ có ai vô tình đụng tới. Con người hiền lành và yêu cây cảnh biến mất hoàn toàn như chưa bao giờ từng có trong chị. Mấy bà hàng xóm và mẹ chồng Liên lại có dịp bàn tán: “Thấy chưa, mèo lại hoàn mèo”. Mấy ông chồng lại chăm ra đường ngấm nguýt nhìn còn các bà vợ lại đá thúng đụng nia vì ghen tuông.
-                      Tuần tới Tony quay lại.
Chị báo với Liên. Cảm giác lạ thay, buồn nhiều hơn vui.
-                      Chị mua mấy chậu hoa tươi về thay đi, hoa lá trước nhà héo hết rồi, anh quay lại sẽ buồn.
Chị nhếch môi phớt lờ. Khoé mắt chị chấp chới một nỗi niềm khó hiểu. Nửa như mong ngóng chờ đợi, nửa như chẳng đặng đừng. Liên thấy thật khó hiểu, mỗi khi chồng đi công tác dăm ba ngày, Liên nhớ như người mất hồn, thấy nhà cửa vắng te, lạnh lẽo. Khi chồng sắp về, Liên vui vẻ hát ca. Khác hẳn chị, chồng đi ba tháng về lại không có cảm xúc gì cụ thể.
-                      Loại đàn bà ấy có chồng cũng như không. Trăm thằng chứ có phải một thằng đâu – Mẹ chồng Liên buông lời khắc nghiệt. Chẳng trách mẹ Liên ghét chị, bố chồng chết năm mẹ 28 tuổi, đầy xuân xanh vẫn ở vậy nuôi hai thằng con trai. Một đời bà không tơ tưởng tới ai ngoài người chồng đã mất.
Hôm Tony về, chẳng biết buồn không mà cứ đứng  tần ngần nhìn những bụi cây tàn héo, khô gầy như mọc trên sa mạc nào đó. Trên bậu cửa sổ, những đoá hoa trà cuối cùng vừa chết đêm qua. Chị không mua lại những khóm hoa mới. Tony lủi thủi tự mình ra phố mua hoa. Khi anh lúi húi trồng đám hoa trước nhà, chị nhăn nhó, khó chịu.
Chị không ngọt ngào: “Honey à, Honey ơi…”, càng không tỏ ra hít hà yêu thương những bong hoa vừa hé như dạo trước. Giữa họ có một khoảng lặng. Không chịu nổi khoảng lặng ấy, anh Tây bỏ đi. Hàng xóm lại được phen bất ngờ, đoán già đoán non. Người bảo: “Chắc thằng Tây hết tiền bao nó, nó ghét đuổi đi”. Người cãi: “Chắc thằng Tây hiểu bộ mặt thật của nó nên ghét, bỏ đi”. Hôm Tony đi, Liên thấy chị đứng sau tấm rèm nhà, khóc nấc người, vai rung lên từng chập.
Tony đi được hơn một tháng, những khóm hoa mới lại bắt đầu úa màu, nhàu nhĩ. Liên thi thoảng có tưới nước cho chúng nhưng không hiểu sao chúng vẫn tàn lụi, không có sức sống. Sáng nay hình như có chuyện xảy ra trong gia đình chị. Nhà chung tường nên Liên nghe rõ từng tiếng hờ than trách móc vọng qua. Khi thấy Liên, chị ráng ngồi thẳng thớm lên chiếc ghế sofa nhưng không gượng được, lại ngã qua một bên như một tàu lá héo rũ. “Liên à, Tony chết rồi”.
Liên sững người. Mỗi sáng, khi nhìn về những khóm hoa thi thoảng Liên vẫn hình dung anh Tây ra tưới hoa. Đôi mắt xanh thẳm màu đại dương, nụ cười rạng ngời như nắng sớm. Vậy mà…
-                      Tony tìm chị mỗi đêm ở vũ trường. Anh ngồi một mình chờ chị. Chị đã thôi không đến đó từ khi anh quay lại. Đám bạn báo, anh chết vì tai biến. Đi nhanh quá không kịp nói gì…
“Sao chị không giữ anh ở lại?” – Liên tiếc nuối. “Ừ, chị ngu quá. Sao không giữ anh lại. Mặc kệ tất cả chứ, tới ngày nào hay ngày nấy chứ”. Chị như điên dại, móc trong túi mình cuốn sổ khám bệnh. Bệnh viện Ung bướu TP.HCM, chỉ nhìn liếc qua, Liên thoáng rùng mình.
Chị sợ anh trông thấy tóc chị sẽ rụng từng mớ, từng mớ. Mặt chị sẽ già nua nhàu nhĩ vì bệnh tật. Chị sợ đến mức có thể dối mình, đuổi anh ra khỏi nhà với lí do bố lũ trẻ sắp quay lại, mẹ con chị sẽ ở chung với bố chúng, căn nhà này sẽ bán. Em thấy chị ngu không? Ngu không?
Chẳng có đáp án nào chung cho những câu chuyện tình, cho những lý lẽ của trái tim người đàn bà đang yêu. Liên biết vậy nhưng vẫn thổn thức những hình dung “giá như, giá như”.
Giá như tối qua đoá hoa trà my không chết. Giá như anh Tây đừng ra đi, anh vẫn mỗi ngày tưới cây, chị mỗi ngày nựng nịu “honey à, honey ơi lấy cho em cái này cái kia”… Liên tin, anh ấy vẫn yêu chị, kể cả khi tóc chị rụng, da chị sạm màu. Mà chắc chẳng riêng Liên tin vào điều đó. Khi Liên thấy chị gục đầu rất lâu ngăn nỗi đau đang quặn lên là chị cũng đang tiếc nuối.

Thời gian để yêu



Đồ xỏ lá, ba que… đồ hứa lèo… Khi đã nằm yên trên chiếc xe giường nằm chạy êm ru trên những con dốc ngoằn nghèo Bảo Lộc, cục tức lại nghèn nghẹn ứ trong họng Diễm. Chửi như thế vẫn chưa hả. Làm sao hả được khi mỗi năm chỉ vài ngày riêng tư dành cho nhau mà Hoàng vẫn không thể thu xếp thời gian, hứa lần hứa lữa mãi. Cuối cùng Diễm lại thui thủi lên Đà Lạt một mình với lỉnh kỉnh hàng tá sắc màu, giá vẽ. Anh đã hứa với Diễm khi mới yêu nhau rằng, mỗi năm anh sẽ đều đặn một lần làm xe ôm tình nguyện chở Diễm lòng vòng những con dốc, những bờ hồ… bất cứ nơi nào Diễm muốn tìm cảm hứng trên vùng đất phố núi này. Cả Diễm và anh đều là người Sài gòn nhưng tình cờ gặp nhau ở Đà Lạt, khi anh vừa mệt mỏi sau một dự án và Diễm đang hào hứng với một bức tranh mới bên hồ Tuyền Lâm. Anh bị người con gái nhỏ bé bên giá vẽ khá lớn gây sự để tâm, quên hết sự mỏi mệt ngay từ lần đầu trông thấy.
 Đà Lạt chưa bao giờ là nơi phù hợp với những ai lên đây một mình. Cái lạnh se se, hun hút khi đêm về, khi chiều xuống chỉ tổ khiến người ta thấy sự cô đơn như cứa, như gặm vào từng thớ da thớ thịt, thấm sâu vào tận cùng gan ruột khi không có ai chia sẻ. Mùa này, những bụi cúc quỳ đã tàn lụi gần hết, chỉ lưa thưa vài bông như những đốm lửa không đủ để sưởi ấm. Dẫu anh lái xe taxi khẳng định thời tiết mùa này đã bớt lạnh nhiều lắm nhưng chẳng hiểu sao Diễm vẫn thấy lòng mình thông thống gió.
Anh lái taxi có vẻ háo hức khi Diễm nói: “Chỗ nào anh cho là đẹp, anh cứ chở tôi tới. Tôi chỉ cần một góc khá yên tĩnh để vẽ. Một con dốc thật đẹp cũng được”. Anh bảo: “Vui nhất là được khách tin cậy mình, chứ hầu như chẳng khách nào dám đặt niềm tin vào mấy anh taxi. Người ta sợ ảnh sẽ đưa lòng vòng vài con dốc núi vô thưởng vô phạt, dừng lại một địa điểm du lịch cũ mèm, đông đúc nào đó với giá cước trên trời”. Diễm không nói nhiều, chỉ thủng thẳng: “Người ta nói trông mặt bắt hình dong. Nhìn mặt anh, tôi tin anh không như vậy”.
Anh dừng lại trên đỉnh một con dốc. Con dốc khá đặc biệt như được đánh dấu bằng cây phượng tím đang đơm bông. Cái sắc hồng của trời chiều phố núi, lại thêm màu phượng tím thật khéo hò hẹn với tâm trạng đang u uất của Diễm. Cô không mấy hào hứng, nhưng không thể phủ nhận đây là một con dốc khá đẹp. Đứng từ đỉnh dốc có thể nhìn thấy mặt hồ in những hàng thông xanh vút và những căn nhà cổ kiểu Pháp lấp ló. Diễm tự nhủ, chắc với tâm trạng hiện tại, khó có thể nhìn nơi nào đẹp đẽ tươi sáng. “Cô cứ vẽ đi, khi cần về gọi cho tôi, hoặc nếu thích có thể ghé vào biệt thự Tơ Chiều uống cà phê, nghe nhạc. Nếu trúng bữa chị chủ quán hát thì hay lắm. Nhưng mà chỉ ít hát, lại hơi khó tính, có gì đừng buồn nhen!” – anh chàng dúi số điện thoại vô tay Diễm rồi chầm chậm lao xe đi. Diễm thoáng nghĩ trong đầu, con dốc lạ, quán lạ, chủ quán lạ, chắc vẽ xong sẽ ghé theo gợi ý của anh taxi. 
* * * * *

Cơn mưa chiều vồn vã ập tới khiến Diễm chỉ kịp thu dọn giá vẽ, cọ màu là đứng chết trân dưới tàng phượng tím. Cổng biệt thự Tơ Chiều chỉ mở he hé, kiểu như gượng gạo đón khách. Diễm đẩy cánh cổng rộng một tẹo, ghé mắt nhìn vào. Cả trong lẫn ngoài đều vắng, chỉ hai người phục vụ lúi húi dọn dẹp và một phụ nữ trung tuổi, có dáng dấp nghệ sĩ hơn là bà chủ, ngồi ôm đàn hát khe khẽ bài gì đó. Chị ngước mắt lên, nhìn Diễm với ánh mắt buồn thiu. Ánh mắt ấy khiến Diễm nhận ra ngay chị là ca sĩ khá nổi của hai thập niên trước. Trước đây khá lâu, khi còn là cô bé tuổi lên 5, lên 6 Diễm đã nghe chị hát từ những băng catsset cũ mèm. Lúc ấy còn nhỏ, không hiểu hết những ca từ nhưng Diễm vẫn rất thích giai điệu bài hát và giọng khàn khàn đặc trưng của chị. Mắt chị loang loáng nước. Chẳng rõ do Diễm nhìn từ xa qua làn mưa nên có cảm giác vậy hay do chị đang chất chứa điều phiền muộn. Khi chị khẽ mỉm cười với Diễm, cô cười đáp lại và vội bước vào hiên nhà.
Diễm nhờ người phục vụ pha một ly ca cao nóng, nhìn những cánh phượng tím thả mình liêu xiêu trong mưa gió. Cách đó chỉ vài cánh tay, chị ca sĩ vẫn ôm đàn hát những ca khúc quen thuộc gắn với chị, hầu hết là ca khúc do người tình đã mất của chị sáng tác. Những câu hát buồn vừa dứt, chị lặng nhìn bình hoa trước mặt. Lúc này Diễm mới để ý đó là một bình phượng tím được cắm giản dị. Trên những mặt bàn khác trong quán cũng được trang trí bằng những cành phượng tím. Khi Diễm thắc mắc vì sao là phượng tím mà không phải mimosa, anh đào hay loại hoa nào khác, chị cười: “Vì anh thích hoa ấy, chỉ tiếc là chưa bao giờ anh nhìn thấy cây phượng tím ở quê nhà”.
Chị đến với anh khi vừa 17 tuổi, anh đã 27. Bác sĩ nói anh chỉ còn khoảng 3 năm để sống vì mắc bệnh ung thư xương. 3 năm quá ngắn đối với bất cứ ai chứ đừng nói chi tới anh. Cả chục năm qua anh mê mải đi trên con đường âm nhạc mà chẳng có duyên. Những ca khúc của anh chẳng đi xa được hơn ngoài quán cà phê ca nhạc bé xíu anh tự mở, để thỏa đam mê được sáng tác, được vừa ôm đàn và hát cho người ta nghe. Anh luôn mang mặc cảm mình sẽ tan biến đi khi chưa kịp để lại một dấu vết gì. Trái lại là chị, ở tuổi hồn nhiên trong trẻo nhất, chẳng hiểu sao càng gần anh chị lại càng thương cảm, tin yêu. Mặc gia đình ngăn cấm vì không môn đăng hộ đối, vì tương lai quá ngắn ngủi và vô vọng, chị vẫn cãi cha mẹ bằng được để đến với anh.
Ngày anh bỏ phố núi để xuống Sài Gòn chữa bệnh cũng là để trốn tránh mối tình vô vọng với chị, chị rơi vào trầm cảm. Chị biết anh thương chị nên mới bỏ đi, nhưng thương như vậy bằng trăm lần, nghìn lần hại nhau. Bởi lúc ấy, ngày nào không có anh, với chị ngày ấy sống khổ hơn chết. Chị vạ vật trên giường ăn không nổi, nuốt không trôi. Trong khi đó, ba mẹ vẫn ráo riết canh chừng, cửa đóng then cài, sợ chị làm điều gì dại dột. Sau những ngày sống khổ sở như một cành khô, chị quyết định điểm tô chút son phấn, xin phép ba mẹ ra bờ hồ dạo mát. Ba mẹ chị họp bàn một lúc, quyết định để chị đi cùng cô em gái. Không ngờ rằng,cô em có nhiệm vụ giám sát kia sẵn sàng tiếp tay cho bà chị trốn đi, vì quá ngưỡng mộ mối tình của hai người.
Chị khóc òa khi gặp lại anh. Phút giây gục đầu trên bờ vai gầy guộc của anh, chị cảm nhận rõ đây chính là chỗ dựa duy nhất trong cuộc đời mình. Chị sẵn sàng bỏ cuộc sống tiểu thư để theo anh du ca, sống trong những căn phòng trọ chỉ đủ chỗ cho vài ba bước chân. Trong chật chội, vất vả, chị nhìn thấy hạnh phúc. Và dường như có duyên, anh sáng tác hăng say hơn. Những ca khúc được nhiều người biết hơn khi được trình bày bởi giọng ca khàn khàn ấm nồng của chị và ngón đàn điêu luyện của anh. Chỉ hai năm sau, họ thành một trong những cặp nghệ sĩ được chào đón nơi đất khách.
Cả anh và chị đều không hiểu nổi vì sao khi thời gian để sống của anh được tính từng ngày thì sức khỏe anh lại ngày càng được cải thiện. Anh sợ đến bệnh viện, sợ sau những chiếu chụp, xét nghiệm là chẩn đóan của bác sĩ về thời khắc sinh mệnh của mình. Quá ba năm, sau những ngày cả anh và chị dường như không dám nói nhiều, thở nhiều vì sợ bất cứ lúc nào cái điều kinh hoàng mà vị bác sĩ trước đây nói sẽ đến, anh mới đến bệnh viện kiểm tra lại. Vị bác sĩ già có kinh nghiệm cười tươi rói: “Chẩn đoán trước đây nhầm lẫn. Đúng là rất dễ nhầm khi anh có những triệu chứng y như ung thư xương giai đoạn cuối”.
* * * * *
Như được trở về từ cõi chết, anh sáng tác ngày càng hay. Những ca khúc của anh ngày càng nhiều người yêu thích. Đồng nghĩa với việc xung quanh anh ngày càng nhiều cô ca sĩ trẻ, người hâm mộ trẻ đẹp ái mộ. Bên anh, chị vẫn hàng ngày hát những khúc tình ca của người tình, họ vẫn là cặp đôi đẹp trong mắt mọi người. Trong khi chị tin tưởng tuyệt đối vào sự chung thủy của anh, cũng như tình yêu duy nhất chị dành cho anh thì anh dần có sự thay đổi.
“Em đã hết chịu nổi. Chừng đó năm em hy sinh vì tình yêu, chứ chẳng vì gì hết. Nhưng đó phải là tình yêu chân thành, chứ thứ tình cảm chia năm sẻ bảy thì em không thể chấp nhận thêm một giây, một phút nào”. Khi nói với anh điều ấy, chị thấy ruột gan mình se lại. Anh vẫn ngồi lặng im đốt thuốc, không thanh minh, không van xin điều gì, dù chị trễ nải kéo chiếc vali ra khỏi căn nhà. Phía khác, nước mắt chị dầm dề khuôn mặt vẫn đang độ xuân sắc. Chị băn khoăn khi ra đi mà vẫn mong đợi anh níu chị lại. Chỉ cần vậy thôi là chị lại tha thứ, như từng tha thứ nhiều lần.
Bẵng đi một thời gian, chị nghe tin anh qua Mỹ định cư cùng gia đình. Chị thấy rõ có sự trống rỗng trong mình kể từ đó. Chị quay về Đà Lạt, mở quán cà phê nhỏ, đêm đêm ngồi hát tình ca cho khách lạ nghe. Để bớt cảm giác trống rỗng hơn là vì mục đích mưu sinh. Đôi khi nghe ai đó nhắc về anh, hỏi về anh chị vẫn cảm giác có vết cứa sắc ngọt vừa lướt qua cõi thẳm sâu lòng mình.
Năm sinh nhật chị 40 tuổi, chị nhận được bưu thiếp chúc mừng của anh. Trong đó có ép một cành phượng tím. Anh nói, chẳng hiểu sao lúc đó sự ngạo nghễ trong anh lại bỗng dưng lớn thế, nên anh để chị ra đi, nên khi rời xa anh vẫn không đến gặp chị lần cuối. Anh ví, hình ảnh của chị trong anh như nhành hoa này. Ước mơ lớn nhất của anh là được quay lại cùng chị, ngồi bên một khung cửa sổ ngập nắng và hoa phượng tím. Để cùng nhau đàn và hát lại những khúc tình ca.    
Chị không hồi đáp lại. Anh giải thích chỉ vì sự ngạo nghễ ư? Thì chị cũng có sự kiêu hãnh của chị chứ. Chừng đó năm ưu phiền và mòn mỏi chờ đợi để nhận lời giải thích, không một lời xin lỗi, chị thấy lòng chỉ nhẹ bớt chứ không vui nổi. Ước mong trở lại bên nhau không chỉ của riêng anh. Chị hỏi khắp nơi để xin giống cây phượng tím. Cuối cùng, một anh bạn học thời cấp ba đã định cư ở Đức gửi về cho chị bảy hạt giống. Gieo bảy hạt xuống đất, kết quả ba cây nảy mầm, sống tận ngày này. “Một cây đầu con dốc em thấy, một cây trong sân vườn, một cây ở ngôi chùa cạnh nhà”. Chị luôn tin có ngày anh quay lại, để sống với ước mơ cùng chị ngồi bên khung cửa ngắm hoa phượng và hát ca.
Đó là ngày cây phượng tím trong sân nhà trổ hoa ngăn ngắt. Ngày ấy thấm thoắt đã 10 năm, cũng buổi chiều vắng khách như chiều nay. Trong ráng chiều hoàng hôn đỏ thẫm lẫn với màu tím ngắt thành một thứ màu buồn ảm đạm – người khách lạ, là người em họ của anh mà chị chưa từng gặp tìm đến. Cô gái giữ bên mình chiếc giỏ mây đầy trân quý và cây đàn guitar quen thuộc của anh. Sau vài câu thăm hỏi, cô ngập ngừng mở chiếc giỏ ấy, nói với chị: “Cây đàn này, và… đây là tất cả những gì còn lại của anh tôi muốn chuyển đến chị. Trong di chúc anh dặn vậy”. Cô gái nâng nhẹ hũ tro cốt ra khỏi chiếc giỏ.
Anh đột quỵ ngay sau buổi biểu diễn. Như có điềm, hôm ấy đứng trên sân khấu, anh chia sẻ, đã nhiều năm anh không gặp lại cô gái trong bài hát này nhưng anh tin sẽ có một ngày gặp lại, không xa.          
Chị lặng im nghe cô em gái kể. Cho tới khi tiễn khách, khép lại cánh cổng gỗ, chị vẫn lặng thinh. Chỉ khi trở lại với căn phòng, nhìn cây đàn, nhìn hũ tro và sắc trời hoàng hôn chuyển về đêm tím sẫm màu phượng, chị khóc òa như thể hàng chục năm tới giờ nước mắt mới vừa được khơi dòng. Từ khi còn rất trẻ, chị hiểu, người ta sẵn sàng chờ đợi khi yêu, nhưng ngược lại có những điều không nên chần chừ, chờ đợi khi yêu, thì bây giờ chị mới hiểu. Ví dụ như chỉ một lời hồi đáp, một lời yêu thương dành cho anh, bây giờ tất cả đã quá muộn. Chẳng biết khi anh ra đi vĩnh viễn, anh có biết chị vẫn luôn chờ đợi.
* * * * *
Khi nghe chị nói điều ấy, nhìn chị lướt những ngón tay gầy xanh trên những dây đàn và rũ nhẹ mái tóc xoăn nhẹ bồng bềnh trên vai, Diễm chợt nhớ tới tin nhắn của Hoàng từ hồi trưa vẫn chưa hồi đáp. Hoàng báo đã giải quyết xong xuôi mọi việc, sẽ lên Đà Lạt chuyến xe đêm nay. Cô nhắn vội: ”Anh lên nhanh nhé, em chờ anh”. 
  

12 ngày phép



12 ngày phép
Một năm có mười hai ngày phép, bạn thường làm gì? Mười hai ngày phép của tôi thường là những dịp tắm biển, nghỉ dưỡng cùng gia đình. Khi đã chán những chuyến đi theo cùng một khuôn thước ấy, tôi bắt đầu chọn một chuyến phượt cùng đám bạn vừa quen trên mạng, lên miền Tây Bắc. Tôi gặp Quỳnh trong chuyến đi phượt đầu tiên ấy. Trông Quỳnh ngồ ngộ khi tóc dài quá nửa lưng, để xõa dịu dàng ngồi trên xe Suzuki cào cào. Một hình ảnh trái ngược khiến người ta phải dừng mắt. Chỉ vậy rồi không nghĩ ngợi gì hơn, bởi hoa đã có chủ, Quỳnh ngồi dựa sau lưng Tùng, phó ban tổ chức cuộc du xuân này.
 Trong khi Tùng với vai trò ban tổ chức bận rộn nhiều công việc không tên thì Quỳnh say mê chụp hết thảy cỏ cây hoa lá trên đường đi. Em khoe Tùng một khoảnh khắc khói lam chiều bay lên từ nhà sàn nằm lọt giữa những vòm hoa mận trắng. Tùng có điện thoại, mải nói chuyện, chẳng buồn ngó qua. Tiện thể thấy tôi ngồi một mình gần đó, Quỳnh chìa máy cho tôi: “Anh xem đẹp không?”. “Những hình ảnh như thế này không phải ai cũng có cơ hội gặp và chộp”. Nghe tôi tỏ ý đồng tình, Quỳnh lần lượt khoe những bức hình khác. Hình một em bé H' Mông mắt tròn xoe, áo thổ cẩm rực rỡ nép mình bên gốc đào đang nở lứa hoa cuối mùa. Hình những nhành hoa cải trắng dịu dàng ngậm đầy sương... Tôi ngầm đoán tay máy này hẳn là cô gái đa cảm.
Lần thứ hai tôi gặp Quỳnh tình cờ ở rạp chiếu phim miễn phí những tác phẩm kinh điển vượt thời gian. Rạp vắng nên không khó để chúng tôi lập tức nhận ra nhau. Quỳnh nheo mắt: “Gần một năm không gặp. Anh vẫn đi một mình à?”. Tôi gật đầu. Quỳnh bảo: “Em ngồi cạnh anh cho vui”. Chẳng thấy vui đâu khi gần suốt bộ phim, chỉ thấy nét trầm tư u uẩn trên gương mặt Quỳnh.
Kể ra, Những cây cầu quận Madison mà chúng tôi cùng xem chưa bao giờ là bộ phim xem để có thể tìm niềm vui. Gần cuối phim, khi vai nữ chính đi bên cạnh chồng mà gặp lại người tình, hai người nhìn nhau trong xót xa, tôi nghe tiếng sụt sịt, vô tình nhìn qua thấy gò má hồng của Quỳnh loa lóa nước mắt.
- Tùng không đi cùng em à?
- Tụi em chia tay rồi, anh à.
Khi ra khỏi rạp, tôi vô tình chạm vào nỗi buồn của Quỳnh. “Đám bạn đi phượt nói em là người yêu dài hạn nhất của Tùng. Những mối tình khác đều ngắn hạn. Hầu hết mỗi chuyến phượt là một em. Em đi với Tùng dăm bảy chuyến, cả hai năm nay rồi. Nhưng em phải dừng lại vì em không thuộc về Tùng, không thuộc về những chuyến đi”. Khi nói ra sự so bì ấy, dù cười tươi nhưng tôi thấy mắt Quỳnh vẫn ướt. Chẳng lẽ dư âm bộ phim buồn kéo dài đến vậy?
* * * 

Đúng ra, một người phụ nữ nhẹ nhàng, đa cảm như Quỳnh không nên và không thể tìm chỗ dựa ở Tùng, anh chàng lấy nick Ngựa Hoang trong đám ham hố những chuyến đi khám phá đường dài. Điều ấy, khi Quỳnh đã là người yêu của tôi, sau là vợ của tôi, tôi có nhắc tới. Quỳnh cười, má lúm tươi, mắt cũng tươi: “Chẳng quan trọng gì, vì bây giờ em đã có chỗ dựa đích thực”.
Cưới Quỳnh, tôi phải vượt qua rào cản rất cao của mẹ. Không có chuyện gì tôi giấu mẹ, từ chuyện quen Quỳnh trong một chuyến đi phượt, chuyện Quỳnh chia tay người yêu và yêu tôi… Mẹ tôi, mẫu người phụ nữ luôn vun vén cho gia đình, một đời bà chưa biết chuyến đi nào cách nhà ba mươi cây số, dĩ nhiên cực lực phản đối cô con dâu có “chân ngựa”, từ mà mẹ gán cho những người ham đi du lịch, khám phá. Nhưng khi tôi gân cổ cãi: “Mẹ chỉ có thể góp ý, chứ không thể quyết định. Vì con lấy vợ cho con chứ không phải cho mẹ”. Mẹ choáng váng mặt mày, xuôi theo mọi chuyện trong một tâm trạng đầy buồn phiền.
Chỉ gần một năm sau khi về làm dâu, Quỳnh đã thành công trong việc lấy lòng mẹ. Nhiều khi mẹ tỏ rõ thái độ bênh vực Quỳnh trước mặt tôi, khiến tôi ngoài mặt tỏ ra cau có nhưng trong lòng lại vui phơi phới. Mẹ bắt đầu giục chúng tôi sinh con. “Mẹ biết chúng mày còn trẻ, thích hưởng thụ. Nhưng  đừng ích kỷ, sợ sinh con xong bị làm phiền thì yên tâm, đã có mẹ nuôi”. Khi mẹ nói câu ấy, cả tôi và Quỳnh đều thấy có gánh trách nhiệm đè lên vai. Quả thực, chúng tôi không thể thanh minh với mẹ rằng không phải vì sợ trách nhiệm mà chẳng hiểu vì sao đã thả hoài vẫn chưa đậu.
Sau nhiều cuộc đấu tranh, có cả khóc lóc, năn nỉ, tôi đồng ý theo Quỳnh vào một phòng khám hiếm muộn nằm kín đáo, sâu trong hẻm. Chủ phòng khám là chị Hoài, một người quen cũ Quỳnh chưa từng nhắc tới. Mọi ngại ngần trong tôi bay biến hết khi khá nhiều cặp vợ chồng tuổi trên dưới ba mươi đang có mặt ở đây ngồi chờ khám. Quỳnh nói nhỏ vào tai tôi: “Anh thấy chưa, bây giờ môi trường khắc nghiệt, công việc căng thẳng, hiếm muộn ở tuổi mình là chuyện bình thường”. Tôi gục gặc, bắt gặp bao nhiêu ánh nhìn mòn mỏi từ những ông bố bà mẹ tương lai khác, tự nhủ, tâm trạng mình không sớm thì muộn cũng sẽ mỏi mệt rã rời như họ.
May mắn là chúng tôi chỉ ghé phòng khám ấy một lần. Quỳnh đưa về một đống thuốc bổ, bảo của chị Hoài kê đơn, chỉ cần uống thuốc một thời gian, khi sức khỏe dồi dào thì sẽ có em bé. Mỗi đêm, tôi đều đặn lấy thuốc uống cho cả vợ lẫn chồng. Bốn tháng sau, Quỳnh hoan hỉ báo tôi, đèn đỏ đã tắt, con của chúng tôi đang hình thành.
Khỏi phải nói cả mẹ và vợ chồng tôi đều vui đến mức nào. Mẹ háo hức đặt ngay tên Đậu Đen cho đứa bé mà chưa ai biết được giới tính. Mẹ nói nó sẽ mát ngọt như món chè đậu đen. Đó là món ăn tôi thích nhất từ nhỏ tới lớn.
Ngày Quỳnh trở dạ, mẹ và tôi đứng ngoài hành lang bệnh viện, mồ hôi đầm đìa. Khi tiếng khóc của Đậu Đen cất lên, một niềm vui vỡ òa ra như có thể  cầm nắm được. Mẹ ôm lấy tôi, mặt tràn đầy sự mãn nguyện: “Giờ thì mẹ có chết cũng vui lòng”.
Chẳng biết câu nói của mẹ có phải điềm báo gở hay không, một tuần sau ngày Đậu Đen ra đời, mẹ tôi trượt chân ngã trong nhà tắm, và qua đời. Bà ra đi mà vẻ mặt tươi tắn như vừa được nghe một câu chuyện vui.
* * *
Đậu Đen có nước da ngăm đen, không giống với da tôi và Quỳnh đều trắng. Nó có mái tóc xoăn, càng lớn càng xoăn quắn vào nhau trông thật ngộ. Những lúc chỉ có hai vợ chồng, tôi trêu Quỳnh: “Hay là giống như phim Hàn Quốc, con nhà đại gia nào lạc vô nhà mình, còn con mình giờ đang ở nhà người ta?”. Quỳnh nghiêm trọng: “Anh đừng nói bậy”. Từ đó tôi không đùa nữa.
Nhưng bà con bên nội thì không thôi gièm pha vì trên người thằng bé bói cũng không ra một nét nào giống tôi. Có bà cô còn gọi thẳng tôi ra một góc trong ngày giỗ đầu của mẹ, khẳng định chỉ có mù mới không nhìn ra là thằng bé chẳng có chút gì hao hao tôi chứ đừng mơ tới chuyện giống. Bà còn huỵch toẹt ra, có khi mày là một… con lừa bị nắm đầu lôi đi mà không biết. Tôi nổi đóa, vằn mắt lên nhìn bà, khiến bà hạ giọng: “Tại người ta nói ra nói vào nhiều quá, tao rát tai mới nhắc mày”.
Khi bà cô cun cút đi ra sau bếp, tôi bắt gặp Quỳnh đứng bên kia chân cầu thang. Có vẻ Quỳnh đã nghe hết mọi việc, mặt đầy nét âu lo. Thái độ ấy của Quỳnh bỗng khiến tôi ngờ vực, dù trước đây tôi chưa bao giờ nghi ngờ Quỳnh điều gì. Kể cả khi Quỳnh đến với tôi không còn trong trắng vì đã trao cho Tùng thứ quý nhất của mình trong lần đi phượt lên Tây Bắc, nơi tôi gặp Quỳnh lần đầu.
Tôi quyết định đưa một nhúm tóc của Đậu Đen đến trung tâm thử ADN. Dọc đường đi, tôi cười thầm trong bụng, nghĩ tới cảnh khi cầm tờ giấy xác định Đậu Đen cùng huyết thống với tôi, hẳn bà cô và những người nhiều chuyện sẽ tắt ngay câu chuyện về sự thủy chung của Quỳnh. Tôi tin Quỳnh, nhưng niềm tin ấy chẳng thể giá trị bằng giấy trắng mực đen xác chứng.
Nếu có một nơi nào đàn ông có nhiều tâm trạng nhất thì tôi nghĩ đó chính là trung tâm ADN này. Nằm trên một con đường nhỏ ít ai biết tên nhưng bao nhiêu phận đời vẫn vào ra nơi đó. Khi tôi bước vào sân trung tâm, những hàng ghế xếp kín khoảng sân nhỏ đã chật kín người. Nhìn những chiếc ghế đen bóng vì quá nhiều người ngồi lên, tôi có chút chạnh lòng. Vài giây chạnh lòng của tôi đột ngột tỉnh thức khi một người phụ nữ tầm ba mươi òa khóc lên và chạy thẳng ra cổng. Phía sau chị, đứa trẻ tuổi lên bốn mếu máo và người đàn ông mắt vằn lên ánh đỏ quạch.
Sau khi gửi mẫu tóc hai bố con lại, tôi ra khỏi trung tâm với một tâm trạng khác. Những câu chuyện, những gương mặt trong không gian chật chội, đông đúc của trung tâm này khiến tôi ngờ vực hết thảy, kể cả điều tôi vẫn tin tuyệt đối là tình yêu và sự thủy chung của Quỳnh. Những ngày sau đó, tôi đặt ra hai giả thiết, nếu là đúng thì kết quả có càng sớm càng tốt, nếu không đúng thì giá như có một lỗi gì đó ở mẫu tóc của hai bố con, và cho kết quả không thể chính xác. Dĩ nhiên tôi sẽ chẳng bao giờ đến đó để kiểm chứng lần hai để lại mang về một tâm trạng hoang mang cực độ như bây giờ. Tôi không chịu nổi khi nghĩ nếu thằng bé hằng đêm vẫn cưỡi ngựa trên lưng mình lại là kẻ khác giống.
***
Nhưng ADN không biết nói dối và cũng không biết an ủi. Đậu Đen và tôi không cùng huyết thống, không liên quan gì nhau. Khi nhận kết quả ấy, mặt tôi nóng bừng đổ lửa, cảm nhận rõ máu nóng đang chạy rần rật trong từng vi mạch. Tôi rùng mình và có cảm giác lợm mửa khi nghĩ tới Quỳnh, người đàn bà mà tôi từng bỏ qua những sai lầm, người mà tôi luôn tin bằng niềm tin tuyệt đối vào sự chung thủy... Hóa ra mọi chuyện đúng như cô tôi dự đoán.
- Cô nói đi, đồ đĩ, tại sao cô lừa tôi?
Tôi gào lên khi thấy Quỳnh đang tập thể dục trên sân thượng. Sau câu nói ấy, tôi thấy mặt Quỳnh biến sắc. Chưa thể hoàn hồn để kịp hiểu ra chuyện gì, Quỳnh cứ đứng trân chịu trận những cái tát như trời giáng của tôi. Khi nhìn thấy tờ giấy trên tay tôi, Quỳnh mím môi, nước mắt lã chã: “Anh ơi, nghe em nói đã…”.
Tôi còn muốn nghe gì nữa khi sự thật hiển nhiên đến thế. Đậu Đen mà tôi nâng niu, mà mẹ tôi mãn nguyện nói “chết cũng vui lòng” hóa ra lại mang dòng máu lang. Tôi văng ra những lời lẽ độc địa nhất, rủa Quỳnh chết đi cho khuất mắt. Và khi tôi không kìm được những cái tát của trận đòn thứ hai xuống mặt Quỳnh thì cô né người, không tiếp tục chịu đựng. Trước mắt tôi,  Quỳnh chới với ngã ra sau. Thành lan can quá thấp không đỡ nổi khiến Quỳnh rơi khỏi sân thượng.
Tôi chỉ kịp nghe tiếng mẹ vợ kêu thất thanh. Bà đang tưới cây trước sân nhà. Khi tôi chạy xuống đất, máu từ miệng và mũi Quỳnh đổ dài xuống cả cằm và cổ. Quỳnh nhìn tôi bằng đôi mắt sầu thảm, nói đứt quãng: “Xin anh bỏ qua cho em… Xin anh hãy nuôi con…” rồi từ từ khép mắt. Mẹ vợ gào lên và ngất lịm. Tôi gọi xe cấp cứu nhưng không còn kịp nữa. Quỳnh đã chết ngay trong sân nhà.
Mẹ Quỳnh khai, lời cuối cùng Quỳnh nói với bà là đang tập thể dục thì trượt chân. Những lời chứng ấy khiến tôi không gặp rắc rối gì với pháp luật. Nhưng mẹ vợ dường như đoán ra điều gì. Bà nói: “Thôi con, nghĩa tử là nghĩa tận”.
Cái chết của Quỳnh không san bằng nỗi hận trong tôi. Lấy lý do Đậu Đen cần một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi, tôi gợi ý mẹ Quỳnh đưa thằng bé về hẳn nhà ông bà. Chỉ ít lâu sau tuần 49 ngày của Quỳnh, tôi xin chuyển công tác vào Sài Gòn.
Sau cái chết của Quỳnh, tôi chưa động đến người Đậu Đen lần nào. Lòng tôi khép lạnh với cả Quỳnh lẫn đứa bé, như thể chính nó cũng mang một tội lỗi không thể thứ tha vậy.
***
Hằng, vợ mới của tôi, người giúp tôi vượt qua những nỗi buồn, lần thứ tư đề nghị sinh em bé. Dù chuyện cũ đã qua lâu nhưng tôi vẫn chưa thể bình thường để nghĩ tới chuyện sinh con. Tôi vẫn nhớ lần ghé ngang nhà mẹ vợ cũ chào bà để vào Nam, Đậu Đen cứ nhìn theo tôi với ánh mắt ràn rụa nước: “Ba ơi... cho con  theo với!”. Nhận cái lắc đầu của tôi, nó chỉ biết quệt nước mắt trên má: “Ba nhớ viết thư cho con nha ba...”. Vẻ mặt của thằng bé, dù không ruột thịt cũng khiến tôi xót cả lòng.
Lần thứ hai tôi lại vào khoa hiếm muộn cùng vợ. Không ngại ngần như lần đầu cùng Quỳnh, tôi chủ động hơn khi đi với Hằng. Vài ngày sau, Hằng đưa tôi tinh dịch đồ: “2% di chuyển chậm anh ạ, bác sĩ nói hết hy vọng. Có thể lúc bé anh bị bệnh gì đó ảnh hưởng tới tinh hoàn”.
Nghe Hằng giải thích, tôi bấn loạn nghĩ tới trận sốt kéo dài khi mắc quai bị lúc bé, càng bấn loạn khi nghĩ tới Quỳnh. Có thể nào trong lần đi khám trước, Quỳnh đã giấu tôi điều này. Và để không chạm vào tự ái của tôi, bằng cách nào đó, để có Đậu Đen?
Tôi bay ra Hà Nội ngay trong ngày. Tôi chỉ mong nhanh tới 4 giờ chiều, khi phòng khám của chị Hoài mở cửa để tìm gặp chị. Tôi tự trách mình lúc trước sao ngu ngốc không đi tìm chị để có thể biết sự thật, và biết đâu đã tránh được cái chết oan uổng của Quỳnh khiến tôi day dứt suốt năm năm nay.
Không phải chỉ một phần sự thật. Chị Hoài đã cho tôi biết tất cả sự thật mà tôi chưa bao giờ hình dung.
Đúng là theo kết quả khám nghiệm của chị Hoài, tôi không có khả năng có con. “Chính chị dẫn Quỳnh sang trung tâm thụ tinh ống nghiệm bên bệnh viện A. Em có thể qua đó gặp bác sĩ Phong, xin tìm hồ sơ kiểm chứng”.
Tôi biết chị Hoài đang trách tôi rất nhiều. Nhưng mọi lời lẽ đã trở nên vô ích. “Vợ em yêu cầu chị giữ bí mật này. Cô ấy cứ sợ làm em tổn thương mà cô ấy thì quá muốn làm mẹ... Chừng đó năm không thấy liên lạc, chị cứ nghĩ vợ chồng em đang hạnh phúc...”.
Khi tiễn tôi khỏi phòng khám, chị Hoài rút khăn giấy lau vội những dòng nước mắt. Tôi tìm đến bác sĩ Phong, cứ mong mọi chuyện không đúng như chị Hoài nói, có thể có sự nhầm lẫn nào đó.
Nhưng thêm một lần, tôi thấy mình như bị rơi xuống vực sâu, khi bác sĩ Phong đưa bộ hồ sơ của Quỳnh cho tôi xem. Tôi nức nở như một đứa trẻ trước mặt vị bác sĩ già đang nhìn mình với cặp mắt nhân từ, đầy chia sẻ.
***
Ngay lập tức, tôi quay về đi tìm Đậu Đen và mẹ vợ. Tôi chỉ muốn kể tất cả với mẹ để xin mẹ cho tôi nhận lại Đậu Đen. Đó là cách duy nhất tôi có thể làm để đền bù cho con và chuộc lỗi với Quỳnh.
Thế nhưng nhà xưa đã đổi chủ, chẳng còn tung tích gì về bà cháu Đậu Đen. Có vài lần tôi gửi tiền về cho hai bà cháu, nhưng gửi mà không xuất phát từ tình yêu thương nên khi bị bưu điện trả lại, tôi cũng không bận tâm tìm hiểu cho rõ ngọn ngành.
Người chủ mới nói rất vô tình: “Bà cụ chủ nhà nói nhà này nhiều kỷ niệm buồn quá, hai bà cháu ở không nổi. Hồi hai bà cháu dọn ra khỏi nhà này, ở trọ đầu hẻm, bà ngoại nó vẫn nhờ tôi giả vờ đóng vai cha nó, viết thư thăm con. Thư trả lời nào nó cũng hỏi, ba ơi bao giờ về thăm con? Đọc muốn ứa nước mắt”.
Hàng ngàn con kiến đang cắn rứt lòng dạ tôi.
Mười hai ngày phép năm nay tôi lại tiếp tục hành trình đi tìm Đậu Đen. Đã rất nhiều năm rồi, tôi luôn dành 12 ngày phép cho công việc mỏi mòn ấy.
Con trai tôi mười tuổi, mắt tròn xoe, da ngăm đen, tóc xoăn tít. Ai thấy nó, làm ơn xin liên hệ với tôi: Phan Xuân Giang, nhà E7, chung cư..., quận..., TP.HCM.

Điều dễ thương

  • Cảm ơn thế giới mạng, đôi khi rảnh rỗi mò mẫm thì phát hiện ra những điều cực dễ thương liên quan tới mình.
  • Coppy từ website http://timtrongkhobau.vnweblogs.com/post/25927/419955
  •  
  • Cảm nhận về Xanh xanh miền nhớ
  • Vài lời thưa cùng bạn đọc:
Chuyện đời, dù buồn dù vui, khi đi qua một khoảng thời gian đủ dài, đều trở thành kỷ niệm, thành một phần không thể thiếu trong thế giới nội tâm phong phú của mỗi người. Có những chuyện, tại thời điểm xảy ra, ta thấy đau khổ, tuyệt vọng, nhưng sau năm tháng, nó chỉ còn vương lại như một mảnh hoài niệm, đủ nhớ để buồn nhưng không còn quá đau khiến lòng người quay quắt như thuở ban đầu. Truyện ngắn Xanh xanh miền nhớ của tác giả Võ Thu Hương chúng tôi giới thiệu là một truyện như thế. Mời bạn tải về máy file chương trình tại địa chỉ: 
http://www.mediafire.com/download/gx0drnmnl3htqds/V2_14-06-2013-22H00_DOC_TRUYEN_-_XANH_XANH_MIEN_NHO_-_VO_THU_HUONG_%26_XOM_CU_-_NGUYEN_NGOC_TU.mp3
  • Văn bản:

Xanh xanh miền nhớ

Võ Thu Hương

Lại một mùa mưa. 
Bốn bề ướt sũng, trái cây rụng bồm bộp trên mái nhà và tiếng côn trùng i uôm bài ca tẻ ngắt khàn đặc của ca sĩ cuối mùa. Chị tần ngần nhìn ngọn lửa vừa nhóm lên, nhớ những ngày còn thơ bé. Lúc là ngồi đợi củ khoai nướng thơm phức, khúc mía lùi ngọt lịm mẹ cho. Lúc mê mẩn nghe bà kể chuyện cổ tích và tưởng tượng có một kinh thành lung linh bên ngọn lửa. Chị tưởng như vị ấm áp của những tháng năm đã xa lan tỏa trong không gian. Tiếng gà trưa nhảy ổ đột ngột làm chị giật mình. Ngoài sân, mưa bong bóng vỡ. Mịt mùng những bọng mây sầm sì từng vệt dày đặc trên trời. mưa chắc sẽ còn lâu lắm. 
Chị lại len  lén cười khi nghĩ lại lúc tình cờ gặp anh lúc chuẩn bị dọn hàng lên xe ra chợ. Đang gom số trái cây còn sót lại thì anh ghé. Không ra dáng người mua hàng, anh hỏi thăm đường về cù lao Ngọt. Chị tần ngần. Nhìn anh mang dáng vẻ mệt mỏi của những ngày đi từ xa đến. Giọng miền Trung nghe nằng nặng thương thương mà có phần rắn rỏi. Chị dè dặt mời anh lên đi chung chuyến xe thổ mộ, dù gì cũng về chung đường. Nét mặt anh thoáng giãn ra, rồi trở lại trầm ngâm. Ở anh có một cái gì đó rất khó nắm bắt, không hiểu sao chị thấy gần gũi và tin tưởng ngay từ những ánh nhìn đầu tiên. 
Anh hỏi thăm về một người tên Tính. Phải khựng ra một lúc, chị nhớ ra không phải ai xa lạ mà chính là bác Bảy. Nhà bác có vườn trái cây to nhất vùng, nổi tiếng ở cù lao, đã dăm bảy lần chị ghé vô mua hàng. Xe dừng, chị nhiệt tình dẫn đường anh vào rồi hối hả đi. Như sực nhớ ra điều gì, chị ngoái lại. Nhìn từ sau, chị ngờ ngợ một nét gì đó như thể rất quen từ anh. Bất chợt anh quay lại, chị nhìn lảng đi nơi khác. Trước giờ chị chưa nhìn lâu người con trai nào, như thế sợ bị nghĩ là dạn quá. Anh gọi với theo:
- Cô ơi, tôi muốn hỏi…
- Ông ấy có vợ con chứ?
- Ờ, ba đứa con. Bác Bảy gái là giáo viên trường làng này. Con cái đi học hết trên huyện.
- Phiền cô…chỉ giúp tôi chỗ nào có thể nghỉ lại một hôm, được không? Nhà trọ hay nhà khách gì cũng được. 
Khẽ nhíu mày, chị bối rối. Khái niệm ấy còn xa lạ với vùng quê này. Chợt lúng túng, anh thanh minh:
- Tôi nghĩ là đã nhầm nhà. Sáng mai, tôi sẽ về, trời bây giờ lại sắp mưa.
Mưa dần nặng hạt. Chị băn khoăn một lát, rồi dè dặt:
- Hay là… anh về nhà tui!
- Tôi có làm chị ngại không? 
Chị lặng im rồi khẽ lắc đầu thật vội. 
Khuya. Càng khuya bỗng dưng càng lo ngại. Từ khi ba má chị lên phố, nhà vắng hơi người quá thể, quẩn quanh bóng chị vào ra với mình. Vì một vẻ ấm áp yêu thương, một niềm tin trong đôi mắt ấy mà chị không nỡ từ chối. Để khi đối diện với bóng đêm, chị lại băn khoăn. Dẫn một người đàn ông về nhà, liệu anh có coi thường chị? Bên ngoài, tiếng trở mình thật khẽ rồi tiếng thở dài giấu mãi bỗng vuột ra. Đêm đặc quá nên những âm thanh não nề kia kéo chùng cả không gian. Chị nén tiếng thở dài, rồi bất chợt cũng đánh rơi ra khỏi lồng ngực. Giọng anh trầm ấm:
- Chị không ngủ được hả? 
Lặng một lúc lâu. Anh khẽ “xin lỗi”. Chị vội vã “không”. Rồi trở mình, giọng chị chợt nhỏ đi:
-Lâu lắm rồi nhà không có ai ghé! Sao anh không ghé vào nhà bác Bảy, tôi biết, anh không nhầm nhà. 
Đáp lại câu hỏi chị là khoảng không yên lặng. Tiếng côn trùng thi thoảng rúc lên từ đất thẳm. Rồi lộp bộp mưa, gió đập những cành dừa lên mái nhà, rào rạt gió. Một lúc, anh đánh trống lảng : “Nhà dột rồi, để mai tôi sửa lại”. Chị tự trách mình nhiều chuyện rồi khe khẽ à ơi câu vọng cổ dụ mình vào giấc ngủ. Từ khi chỉ một mình, chị có thói quen tự ru như vậy trong những đêm khó ngủ, để bớt thấy đơn côi. Nhưng suốt đêm ấy, chị không chợp mằt lấy được một chút, chị nằm như đếm tiếng thở dài và trở mình của anh lọt qua vách. 
Buổi sang, trời ngớt mưa, hửng nắng. Mưa ngớt đôi chút, anh leo lên gốc mận bên hông nhà, sửa lại mái. Nhà chỉ một người con gái nên đến cái thang cũng không có. Chị cời than, ủ nồi cơm cho chín nóng rồi ra cửa đứng nhìn. Trời nhợt nhạt một màu mây xám, báo hiệu những cơn mưa nối tiếp cơn mưa. Mảnh sân đầy hoa dừa, trái mận non rụng một màu trắng dịu trên nền đất nhờ nhờ những vũng nước đọng. Chị lắc đầu, xõa mái tóc dài đen mướt. Đan tay vào mái tóc, thấy bàn tay mình chợt trống trải khi chưa từng có bàn tay ai đan vào. Cái cảm giác ấy, ô hay! đã bao giờ có ở chị đâu. Chị cảm giác lạnh lẽo, thấy bếp lửa ấm nồng hơn, chị quay vào. Phải chăng vì lâu quá rồi mới đỏ bếp nấu một bữa cơm cho hai người. 
Chị không biết anh vào từ lúc nào, vẫn ánh mắt ấm nồng, anh chọc chị:
- Nhìn từ trên mái xuống có thể nhìn thấy hết căn nhà, cô không sợ trộm rình mò sao, cô ở đây một mình à? 
Chị gật đầu xác nhận:
- Chỉ khi nội tôi mất đi, ba má và hai đứa em ra phố, thỉnh thoảng ghé lại. Dạo này họ chuyển hẳn lên phố, cũng ít khi về được. Một mình cũng phải quen, đã ở từ lúc sinh ra tôi không thể xa nơi này. 
Chị bật cười, nhớ lại cái lần chị dọn đồ lên phố khi hết tang nội. Mùi chăn nệm và những bông hồng kiêu sa cắm trong phòng kín không át được vị trống trải. Chị nhớ mùi thoang thoảng hương dừa, hương cau, mùi ngọt nồng của gốc hoàng lan phía đầu ngõ; và cả mùi nồng hăng của đất bùn từ khúc sông đầy ăm ắp phù sa phía sau nhà. Không đầy ba ngày, chị nhớ khúc sông ấy, mảnh sân nhà và những gốc cây quen thuộc đến phát cuồng. Chị vội vã rời phố. 
Từ xa, cây bò cạp vàng cổ thụ với cái dáng nghiêng nghiêng tần tảo tỏa rợp hoa vàng cả bến sông. Chỉ nhìn thấy dáng cây ấy, chị như thấy dáng nội lam lũ, dáng những người thôn quê tần tảo ruộng vườn. Chị bật khóc và hiểu sẽ không thể rời xa nơi này. Như duyên nợ tiền kiếp, chốn ấy đã in vào lòng chị.   
Những cơn mưa níu chân anh ở lại. Không hiểu sao tận trong lòng, chị không muốn anh ra đi. Chỉ một thời gian ngắn, chị thấy anh như người trong nhà vậy. Anh kể cho chị nghe về miền Trung, nơi chưa bao giờ chị đến. Là dòng sông Lam xanh văn vắt, núi Hồng chín mươi chín ngọn và huyền thoại đôi trai gái yêu nhau bị cấm đoán vì lời nguyền ranh giới hai vùng. Họ nguyện thề và mong thoát sang kiếp khác để bên nhau mãi mãi. Bao năm rồi, dòng sông như áng tóc mướt dài, xanh dịu vợi ôm vòng quanh ngực núi, căng phồng sức trẻ. Câu chuyện muôn đời ở đâu trên mặt đất này đều có thể thân quen như thế mà sao nghe nhói một niềm riêng. 
Những lúc rảnh, anh tước lá dừa bên thềm nhà, tết tặng chị những con thú dễ thương, con châu chấu đuôi dài, chú dế  ngóc cao cái đầu tròn như vênh vang ra mặt, những cánh hạc bay mềm… Cả cái xe đạp, giỏ mây…vật nào cũng rất khéo, trông xinh và sinh động hẳn căn nhà. 
Trời đã ngớt mưa từ ban trưa. Không ai muốn nhắc nhau rằng mưa đã ngớt. Những tia nắng hửng lên, len vào cửa sổ như trêu ngươi. Chiều xuống, phía khúc sông sau nhà, chị bật khóc. Lần đầu, chị biết đến nỗi cô đơn khi bên cạnh một người. Những đám lục bình hợp rồi tan. Cớ chi phải hợp để thấy nỗi chia xa? 
Bàn tay khẽ đặt lên và nắm chặt bờ vai chị. Chị không quay lại. Chị nức nở.
- Đừng khóc… Anh sẽ trở lại thăm em. 
Anh đặt lên chị một nụ hôn. Nụ hôn đầu tiên trong cuộc đời chị. Chị dựa vào vai anh tin tưởng. Anh nhẹ đan tay vào tóc. Lần đầu, mái tóc chị biết đến bàn tay đàn ông. Để rồi ngày mai, còn trống trải hơn cả khi chưa từng biết. 
 *

- Rồi hai người không gặp lại nhau hả bà? 
Đứa cháu gái sau khi nghe kể câu chuyện dài về kỷ niệm nụ hôn đầu của bà nội, bỗng thắc thỏm hỏi. Tay cô bé nâng niu những con thú xác xơ và nâu khẳm với một vẻ yêu thương. Nó chăm chú nhìn ngón tay bà gân guốc với mảnh lá dừa kết hình con hạc.
- Một lần, khi ông Bảy ốm nặng… Con người ta, ruột rà máu mủ bao giờ cũng có linh tính. Lần đó, bà mới biết ông ấy là con ông Bảy. Ông Bảy không biết mình có một đứa con trong lần tập kết ra Bắc. Cha con nhận mặt nhau không đầy một tháng, chỉ suốt ngày kề cận chăm nom bên giường bệnh. 
…Rồi ông Bảy mất, đất vườn này không níu nổi chân người ấy. Dù mùa mưa, sông vẫn đỏ nặng lòng phù sa. Suốt ngày, anh chỉ ngồi trầm ngâm, lặng im đốt thuốc. Chỉ nhìn bộ dạng anh, chị đoán chắc anh suy nghĩ hung lắm mà không dám hỏi. Con người ấy, kể cũng lạ, lúc không muốn nói thì chẳng cách nào có thể đoán biết chút nỗi niềm gì… Anh lại đi với lời hẹn: “Anh sẽ quay lại”. Cô gái biết, chẳng thể níu kéo, biết trước mắt lại là những ngày chờ đợi, nhớ nhung và hy vọng anh trở lại… Trước ngày anh ra đi, cô đã trở thành đàn bà. Hôm ấy trời trong, trăng sáng lắm. Ánh trăng tinh nghịch tràn qua ô cửa sổ nhỏ xíu, ngọt dịu. Nhiều đêm trăng sáng nhiều năm sau đó, đối diện ánh trăng, chị lại xốn xang, gầy hao, mất ngủ, nhớ mùi mồ hôi nồng nồng, mùi khói thuốc hăng hăng tràn trong đêm trăng. 
Chị lành như cục đất quê, mỏng mảnh như lá dừa non mới nhú. Có lẽ vì thế mà sau chín tháng mười ngày và bao nhiêu năm nuôi con một mình mà không ai nói gì. Con của chị lớn lên như con chung của cả xóm. Đã có vài cơ hội đi bước nữa, nhưng chị lần lữa né tránh, bởi vẫn mong đợi một ngày anh về. Chị vẫn tin chắc một ngày anh về. Nhiều năm chờ đợi, những hôm gió chướng, ùa về rào rạt vườn dừa, chị lại thắc thỏm dắt con ra ngóng, lại quay vào nhà khi chắc mẩm chỉ là tiếng lá trêu đùa vô ý. 
------------- 
Đứa cháu gái bùi ngùi nắm bờ vai gầy xương của bà. Nó xót ruột khi hình dung, tình yêu duy nhất trong đời của bà ngắn ngủi đến vậy. Bà lão thở dài: “Âu cũng là số trời”. 
Khúc sông sau nhà thao thiết chảy. Hương phù sa hoang hoải buồn. Nó bần thần trước những bọc lá dừa kết đủ hình, đủ con hong nơi góc bếp, chỉ còn những hình thù cong queo, co nhúm, màu nâu nhợt nhạt. Bà nó đã từng xếp thật nhiều, đã cất giữ bấy nhiêu lâu mà người cũng không trở lại. Nó bất chợt nhớ câu chuyện về nghìn con hạc mà người con gái xếp để đạt ước nguyện trong câu chuyện cổ tích. Có ước nguyện nào không trong đời thực, khi ngày đã qua, tháng đã qua, năm đã qua… xa lắm. Hay là nỗi nhớ chắt chiu trong những cánh chuồn, cánh hạc để đến một lúc nào đó bỗng hoá quen thân như một phần trong cuộc sống vậy. 
Chập chờn giấc ngủ của nó hôm đó, bóng cây bò cạp vàng đổ dài trên bến sông, nghiêng nghiêng dáng bà nội tần tảo đứng chờ sau mỗi buổi tan chợ. Rồi ngày kia, bóng cây đơn côi, bến sông trưa không ai đứng ngóng.
Một lần, người đàn ông năm xưa trở lại, dáng khổ hạnh và rắn rỏi sau những ngày lam lũ mưu sinh. Nhưng anh chỉ có thể tần ngần đứng trước ngõ, khi lối vào nhà dường như đã khác, lại nghe tiếng ru con dịu dàng của người mình yêu. “Ầu ơ… ví dầu…” Anh đành quay đi, lòng quằn quặn, cũng chẳng thể trách ai ngoài tự trách mình mê mải quá. Thấm thoắt ba năm bay vèo như chiếc lá, chắc là người con gái không thể chờ nữa. Anh không biết, đêm đêm, bóng đổ dài trên vách, cô tỉ mẩn kết lá dừa với những nỗi niềm riêng.  
Nó nhờ bà kết những hình thú đưa về phố. Trong căn phòng đầy sắc màu, màu xanh sẫm của lá dừa tươi như những nốt trầm yêu thương trong bản nhạc tình yêu. Cánh hạc mềm, chú dế với cái đầu tròn hãnh diện như muốn ca khúc hát muôn thuở của mình… Những con thú lá dừa lung linh… Khúc sông đầy phù sa và bóng bò cạp vàng che rợp màu xanh mát long lanh…/.
  • Vài cảm nhận về truyện ngắn:
Có lẽ, mô típ truyện kể của tác giả Võ Thu Hương không lạ với nhiều bạn đọc. Một cô gái lỡ thì gặp chàng trai vùng khác, bị hấp dẫn bởi giọng nói, bởi vẻ ngoài nam tính, bởi sự chăm chút, quan tâm và rồi trao thân, gửi phận. Rồi sau hạnh phúc ngắn ngủi, người đàn ông ra đi, để lại cho cô gái nỗi nhớ thương đã thành một hình hài trong cơ thể. Nhưng khác ở chỗ, câu chuyện này được kể không từ góc độ hờn oán, trách móc hay kết tội. Nó đơn giản chỉ là một phần đời đã qua người bà kể lại cho cô cháu gái. Có thể là một bài học về cuộc sống. Có thể là sự sẻ chia với cô cháu, để rồi một ngày kia cũng trở thành thiếu nữ, sẽ yêu và có hạnh phúc với một người đàn ông. Lối tiếp cận đó khiến cảm xúc và giọng điệu kể chuyện có gì đó dung dị, nhẹ nhàng, thiên về cảm xúc bao dung, lãng mạn. Hình ảnh người đàn ông thấp thoáng trong câu chuyện. Cách đột ngột chuyển sang hiện tại với việc đổi ngôi trần thuật và sự xuất hiện của cô cháu gái khiến người nghe có chút ngạc nhiên, thú vị. Người bà nhẩn nha kể lại quá khứ với cháu như để nhớ lại những khoảnh khắc thật ngắn ngủi của tình yêu duy nhất trong đời. Bà không bao giờ gặp lại người đàn ông đó sau ngày họ dành cho nhau tất cả. Có thể, bà chẳng bao giờ biết, người đó có thực sự yêu mình không, anh ta đã bao giờ có ý định trở lại tìm bà sau lần đó không. Trong ký ức của bà, nó mãi vẹn nguyên là một tình yêu đẹp, là một khoảng ngưng cảm xúc được đóng gói, được bảo quản trong vùng ký ức của tuổi thanh xuân. Truyện của Võ Thu Hương dù không một lời trách móc, không day dứt, không oán hận, nhưng lại gợi cho người nghe một cảm giác xót thương vô hạn trước niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, bình dị đến đơn giản của người phụ nữ. Rốt cuộc họ có cần gì đâu. Chỉ một tình yêu đích thực, một đứa con để bận bịu tối ngày, một ánh mắt ấm áp sẻ chia, một bàn tay âu yếm lùa vào mái tóc. Chỉ thế thôi là đủ dư năng lượng sống và niềm tin cho cả một phần đời dài dằng dặc phía sau với bao nhọc nhằn, gian khổ khi làm mẹ. Người ta vẫn nói có một đặc điểm gọi là “tính nữ” trong tác phẩm của các tác giả nữ. Đọc và nghe Xanh xanh miền nhớ, tôi dám chắc, chẳng ai bảo, đó là truyện của một cây bút nam giới, chính bởi những xúc cảm “thiên vị” rất đáng yêu này.
Dương Kim Thoa