Thứ Năm, 8 tháng 8, 2013

Thời gian để yêu



Đồ xỏ lá, ba que… đồ hứa lèo… Khi đã nằm yên trên chiếc xe giường nằm chạy êm ru trên những con dốc ngoằn nghèo Bảo Lộc, cục tức lại nghèn nghẹn ứ trong họng Diễm. Chửi như thế vẫn chưa hả. Làm sao hả được khi mỗi năm chỉ vài ngày riêng tư dành cho nhau mà Hoàng vẫn không thể thu xếp thời gian, hứa lần hứa lữa mãi. Cuối cùng Diễm lại thui thủi lên Đà Lạt một mình với lỉnh kỉnh hàng tá sắc màu, giá vẽ. Anh đã hứa với Diễm khi mới yêu nhau rằng, mỗi năm anh sẽ đều đặn một lần làm xe ôm tình nguyện chở Diễm lòng vòng những con dốc, những bờ hồ… bất cứ nơi nào Diễm muốn tìm cảm hứng trên vùng đất phố núi này. Cả Diễm và anh đều là người Sài gòn nhưng tình cờ gặp nhau ở Đà Lạt, khi anh vừa mệt mỏi sau một dự án và Diễm đang hào hứng với một bức tranh mới bên hồ Tuyền Lâm. Anh bị người con gái nhỏ bé bên giá vẽ khá lớn gây sự để tâm, quên hết sự mỏi mệt ngay từ lần đầu trông thấy.
 Đà Lạt chưa bao giờ là nơi phù hợp với những ai lên đây một mình. Cái lạnh se se, hun hút khi đêm về, khi chiều xuống chỉ tổ khiến người ta thấy sự cô đơn như cứa, như gặm vào từng thớ da thớ thịt, thấm sâu vào tận cùng gan ruột khi không có ai chia sẻ. Mùa này, những bụi cúc quỳ đã tàn lụi gần hết, chỉ lưa thưa vài bông như những đốm lửa không đủ để sưởi ấm. Dẫu anh lái xe taxi khẳng định thời tiết mùa này đã bớt lạnh nhiều lắm nhưng chẳng hiểu sao Diễm vẫn thấy lòng mình thông thống gió.
Anh lái taxi có vẻ háo hức khi Diễm nói: “Chỗ nào anh cho là đẹp, anh cứ chở tôi tới. Tôi chỉ cần một góc khá yên tĩnh để vẽ. Một con dốc thật đẹp cũng được”. Anh bảo: “Vui nhất là được khách tin cậy mình, chứ hầu như chẳng khách nào dám đặt niềm tin vào mấy anh taxi. Người ta sợ ảnh sẽ đưa lòng vòng vài con dốc núi vô thưởng vô phạt, dừng lại một địa điểm du lịch cũ mèm, đông đúc nào đó với giá cước trên trời”. Diễm không nói nhiều, chỉ thủng thẳng: “Người ta nói trông mặt bắt hình dong. Nhìn mặt anh, tôi tin anh không như vậy”.
Anh dừng lại trên đỉnh một con dốc. Con dốc khá đặc biệt như được đánh dấu bằng cây phượng tím đang đơm bông. Cái sắc hồng của trời chiều phố núi, lại thêm màu phượng tím thật khéo hò hẹn với tâm trạng đang u uất của Diễm. Cô không mấy hào hứng, nhưng không thể phủ nhận đây là một con dốc khá đẹp. Đứng từ đỉnh dốc có thể nhìn thấy mặt hồ in những hàng thông xanh vút và những căn nhà cổ kiểu Pháp lấp ló. Diễm tự nhủ, chắc với tâm trạng hiện tại, khó có thể nhìn nơi nào đẹp đẽ tươi sáng. “Cô cứ vẽ đi, khi cần về gọi cho tôi, hoặc nếu thích có thể ghé vào biệt thự Tơ Chiều uống cà phê, nghe nhạc. Nếu trúng bữa chị chủ quán hát thì hay lắm. Nhưng mà chỉ ít hát, lại hơi khó tính, có gì đừng buồn nhen!” – anh chàng dúi số điện thoại vô tay Diễm rồi chầm chậm lao xe đi. Diễm thoáng nghĩ trong đầu, con dốc lạ, quán lạ, chủ quán lạ, chắc vẽ xong sẽ ghé theo gợi ý của anh taxi. 
* * * * *

Cơn mưa chiều vồn vã ập tới khiến Diễm chỉ kịp thu dọn giá vẽ, cọ màu là đứng chết trân dưới tàng phượng tím. Cổng biệt thự Tơ Chiều chỉ mở he hé, kiểu như gượng gạo đón khách. Diễm đẩy cánh cổng rộng một tẹo, ghé mắt nhìn vào. Cả trong lẫn ngoài đều vắng, chỉ hai người phục vụ lúi húi dọn dẹp và một phụ nữ trung tuổi, có dáng dấp nghệ sĩ hơn là bà chủ, ngồi ôm đàn hát khe khẽ bài gì đó. Chị ngước mắt lên, nhìn Diễm với ánh mắt buồn thiu. Ánh mắt ấy khiến Diễm nhận ra ngay chị là ca sĩ khá nổi của hai thập niên trước. Trước đây khá lâu, khi còn là cô bé tuổi lên 5, lên 6 Diễm đã nghe chị hát từ những băng catsset cũ mèm. Lúc ấy còn nhỏ, không hiểu hết những ca từ nhưng Diễm vẫn rất thích giai điệu bài hát và giọng khàn khàn đặc trưng của chị. Mắt chị loang loáng nước. Chẳng rõ do Diễm nhìn từ xa qua làn mưa nên có cảm giác vậy hay do chị đang chất chứa điều phiền muộn. Khi chị khẽ mỉm cười với Diễm, cô cười đáp lại và vội bước vào hiên nhà.
Diễm nhờ người phục vụ pha một ly ca cao nóng, nhìn những cánh phượng tím thả mình liêu xiêu trong mưa gió. Cách đó chỉ vài cánh tay, chị ca sĩ vẫn ôm đàn hát những ca khúc quen thuộc gắn với chị, hầu hết là ca khúc do người tình đã mất của chị sáng tác. Những câu hát buồn vừa dứt, chị lặng nhìn bình hoa trước mặt. Lúc này Diễm mới để ý đó là một bình phượng tím được cắm giản dị. Trên những mặt bàn khác trong quán cũng được trang trí bằng những cành phượng tím. Khi Diễm thắc mắc vì sao là phượng tím mà không phải mimosa, anh đào hay loại hoa nào khác, chị cười: “Vì anh thích hoa ấy, chỉ tiếc là chưa bao giờ anh nhìn thấy cây phượng tím ở quê nhà”.
Chị đến với anh khi vừa 17 tuổi, anh đã 27. Bác sĩ nói anh chỉ còn khoảng 3 năm để sống vì mắc bệnh ung thư xương. 3 năm quá ngắn đối với bất cứ ai chứ đừng nói chi tới anh. Cả chục năm qua anh mê mải đi trên con đường âm nhạc mà chẳng có duyên. Những ca khúc của anh chẳng đi xa được hơn ngoài quán cà phê ca nhạc bé xíu anh tự mở, để thỏa đam mê được sáng tác, được vừa ôm đàn và hát cho người ta nghe. Anh luôn mang mặc cảm mình sẽ tan biến đi khi chưa kịp để lại một dấu vết gì. Trái lại là chị, ở tuổi hồn nhiên trong trẻo nhất, chẳng hiểu sao càng gần anh chị lại càng thương cảm, tin yêu. Mặc gia đình ngăn cấm vì không môn đăng hộ đối, vì tương lai quá ngắn ngủi và vô vọng, chị vẫn cãi cha mẹ bằng được để đến với anh.
Ngày anh bỏ phố núi để xuống Sài Gòn chữa bệnh cũng là để trốn tránh mối tình vô vọng với chị, chị rơi vào trầm cảm. Chị biết anh thương chị nên mới bỏ đi, nhưng thương như vậy bằng trăm lần, nghìn lần hại nhau. Bởi lúc ấy, ngày nào không có anh, với chị ngày ấy sống khổ hơn chết. Chị vạ vật trên giường ăn không nổi, nuốt không trôi. Trong khi đó, ba mẹ vẫn ráo riết canh chừng, cửa đóng then cài, sợ chị làm điều gì dại dột. Sau những ngày sống khổ sở như một cành khô, chị quyết định điểm tô chút son phấn, xin phép ba mẹ ra bờ hồ dạo mát. Ba mẹ chị họp bàn một lúc, quyết định để chị đi cùng cô em gái. Không ngờ rằng,cô em có nhiệm vụ giám sát kia sẵn sàng tiếp tay cho bà chị trốn đi, vì quá ngưỡng mộ mối tình của hai người.
Chị khóc òa khi gặp lại anh. Phút giây gục đầu trên bờ vai gầy guộc của anh, chị cảm nhận rõ đây chính là chỗ dựa duy nhất trong cuộc đời mình. Chị sẵn sàng bỏ cuộc sống tiểu thư để theo anh du ca, sống trong những căn phòng trọ chỉ đủ chỗ cho vài ba bước chân. Trong chật chội, vất vả, chị nhìn thấy hạnh phúc. Và dường như có duyên, anh sáng tác hăng say hơn. Những ca khúc được nhiều người biết hơn khi được trình bày bởi giọng ca khàn khàn ấm nồng của chị và ngón đàn điêu luyện của anh. Chỉ hai năm sau, họ thành một trong những cặp nghệ sĩ được chào đón nơi đất khách.
Cả anh và chị đều không hiểu nổi vì sao khi thời gian để sống của anh được tính từng ngày thì sức khỏe anh lại ngày càng được cải thiện. Anh sợ đến bệnh viện, sợ sau những chiếu chụp, xét nghiệm là chẩn đóan của bác sĩ về thời khắc sinh mệnh của mình. Quá ba năm, sau những ngày cả anh và chị dường như không dám nói nhiều, thở nhiều vì sợ bất cứ lúc nào cái điều kinh hoàng mà vị bác sĩ trước đây nói sẽ đến, anh mới đến bệnh viện kiểm tra lại. Vị bác sĩ già có kinh nghiệm cười tươi rói: “Chẩn đoán trước đây nhầm lẫn. Đúng là rất dễ nhầm khi anh có những triệu chứng y như ung thư xương giai đoạn cuối”.
* * * * *
Như được trở về từ cõi chết, anh sáng tác ngày càng hay. Những ca khúc của anh ngày càng nhiều người yêu thích. Đồng nghĩa với việc xung quanh anh ngày càng nhiều cô ca sĩ trẻ, người hâm mộ trẻ đẹp ái mộ. Bên anh, chị vẫn hàng ngày hát những khúc tình ca của người tình, họ vẫn là cặp đôi đẹp trong mắt mọi người. Trong khi chị tin tưởng tuyệt đối vào sự chung thủy của anh, cũng như tình yêu duy nhất chị dành cho anh thì anh dần có sự thay đổi.
“Em đã hết chịu nổi. Chừng đó năm em hy sinh vì tình yêu, chứ chẳng vì gì hết. Nhưng đó phải là tình yêu chân thành, chứ thứ tình cảm chia năm sẻ bảy thì em không thể chấp nhận thêm một giây, một phút nào”. Khi nói với anh điều ấy, chị thấy ruột gan mình se lại. Anh vẫn ngồi lặng im đốt thuốc, không thanh minh, không van xin điều gì, dù chị trễ nải kéo chiếc vali ra khỏi căn nhà. Phía khác, nước mắt chị dầm dề khuôn mặt vẫn đang độ xuân sắc. Chị băn khoăn khi ra đi mà vẫn mong đợi anh níu chị lại. Chỉ cần vậy thôi là chị lại tha thứ, như từng tha thứ nhiều lần.
Bẵng đi một thời gian, chị nghe tin anh qua Mỹ định cư cùng gia đình. Chị thấy rõ có sự trống rỗng trong mình kể từ đó. Chị quay về Đà Lạt, mở quán cà phê nhỏ, đêm đêm ngồi hát tình ca cho khách lạ nghe. Để bớt cảm giác trống rỗng hơn là vì mục đích mưu sinh. Đôi khi nghe ai đó nhắc về anh, hỏi về anh chị vẫn cảm giác có vết cứa sắc ngọt vừa lướt qua cõi thẳm sâu lòng mình.
Năm sinh nhật chị 40 tuổi, chị nhận được bưu thiếp chúc mừng của anh. Trong đó có ép một cành phượng tím. Anh nói, chẳng hiểu sao lúc đó sự ngạo nghễ trong anh lại bỗng dưng lớn thế, nên anh để chị ra đi, nên khi rời xa anh vẫn không đến gặp chị lần cuối. Anh ví, hình ảnh của chị trong anh như nhành hoa này. Ước mơ lớn nhất của anh là được quay lại cùng chị, ngồi bên một khung cửa sổ ngập nắng và hoa phượng tím. Để cùng nhau đàn và hát lại những khúc tình ca.    
Chị không hồi đáp lại. Anh giải thích chỉ vì sự ngạo nghễ ư? Thì chị cũng có sự kiêu hãnh của chị chứ. Chừng đó năm ưu phiền và mòn mỏi chờ đợi để nhận lời giải thích, không một lời xin lỗi, chị thấy lòng chỉ nhẹ bớt chứ không vui nổi. Ước mong trở lại bên nhau không chỉ của riêng anh. Chị hỏi khắp nơi để xin giống cây phượng tím. Cuối cùng, một anh bạn học thời cấp ba đã định cư ở Đức gửi về cho chị bảy hạt giống. Gieo bảy hạt xuống đất, kết quả ba cây nảy mầm, sống tận ngày này. “Một cây đầu con dốc em thấy, một cây trong sân vườn, một cây ở ngôi chùa cạnh nhà”. Chị luôn tin có ngày anh quay lại, để sống với ước mơ cùng chị ngồi bên khung cửa ngắm hoa phượng và hát ca.
Đó là ngày cây phượng tím trong sân nhà trổ hoa ngăn ngắt. Ngày ấy thấm thoắt đã 10 năm, cũng buổi chiều vắng khách như chiều nay. Trong ráng chiều hoàng hôn đỏ thẫm lẫn với màu tím ngắt thành một thứ màu buồn ảm đạm – người khách lạ, là người em họ của anh mà chị chưa từng gặp tìm đến. Cô gái giữ bên mình chiếc giỏ mây đầy trân quý và cây đàn guitar quen thuộc của anh. Sau vài câu thăm hỏi, cô ngập ngừng mở chiếc giỏ ấy, nói với chị: “Cây đàn này, và… đây là tất cả những gì còn lại của anh tôi muốn chuyển đến chị. Trong di chúc anh dặn vậy”. Cô gái nâng nhẹ hũ tro cốt ra khỏi chiếc giỏ.
Anh đột quỵ ngay sau buổi biểu diễn. Như có điềm, hôm ấy đứng trên sân khấu, anh chia sẻ, đã nhiều năm anh không gặp lại cô gái trong bài hát này nhưng anh tin sẽ có một ngày gặp lại, không xa.          
Chị lặng im nghe cô em gái kể. Cho tới khi tiễn khách, khép lại cánh cổng gỗ, chị vẫn lặng thinh. Chỉ khi trở lại với căn phòng, nhìn cây đàn, nhìn hũ tro và sắc trời hoàng hôn chuyển về đêm tím sẫm màu phượng, chị khóc òa như thể hàng chục năm tới giờ nước mắt mới vừa được khơi dòng. Từ khi còn rất trẻ, chị hiểu, người ta sẵn sàng chờ đợi khi yêu, nhưng ngược lại có những điều không nên chần chừ, chờ đợi khi yêu, thì bây giờ chị mới hiểu. Ví dụ như chỉ một lời hồi đáp, một lời yêu thương dành cho anh, bây giờ tất cả đã quá muộn. Chẳng biết khi anh ra đi vĩnh viễn, anh có biết chị vẫn luôn chờ đợi.
* * * * *
Khi nghe chị nói điều ấy, nhìn chị lướt những ngón tay gầy xanh trên những dây đàn và rũ nhẹ mái tóc xoăn nhẹ bồng bềnh trên vai, Diễm chợt nhớ tới tin nhắn của Hoàng từ hồi trưa vẫn chưa hồi đáp. Hoàng báo đã giải quyết xong xuôi mọi việc, sẽ lên Đà Lạt chuyến xe đêm nay. Cô nhắn vội: ”Anh lên nhanh nhé, em chờ anh”. 
  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét